HÒA BÌNH & TỰ DO VN- THỜI HẬU CỘNG SẢN.
Viễn tượng hòa bình tự do cho Việt Nam thời hậu Cộng sản
LTCG (11.12.2010)Chỉ trong phạm vi thật nhỏ là cộng đoàn gia đình, chúng ta đã thấy có những khác biệt về lề lối sống và tư duy. Trong một quốc gia với hằng chục hằng trăm triệu người thì chắc chắn có rất nhiều những dị biệt khác nhau.
Vậy, nguyên tắc nào để kiến tạo hòa bình trong một gia đình hay trong cộng đồng sinh hoạt của một quốc gia mà vẫn duy trì những ý thức hệ và nhân tính khác nhau? Dựa vào nguyên tắc căn bản nào mọi người con dân một nước mới hòa đồng, sống chung với nhau được?
Viễn tượng hòa bình trong tự do là gì? Những điều kiện „ắt có và đủ“ như thế nào cho một thể chế tự do hòa bình bền vững? Chúng ta hình dung một thế giới, một quốc gia sống trong hòa bình và tự do qua hình ảnh như thế nào? Trước hết chúng ta đọc đoạn Kinh Thánh sau: „Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành. Bấy giờ sói sẽ ở với chiên, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò.Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên gag rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ở rắn hổ mang.“ (Is 11, 5-8) (Bài đọc tuần thứ hai, mùa Vọng, năm A).
Sói ở với chiên, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử nuôi chung với nhau; bò cái kết bạn cùng với gấu cái, sư tử ăn rơm như bò, vân vân và vân vân. Thật, đúng là hình ảnh Thiên đường hạ giới!
Dựa trên nguyên tắc thiên nhiên và theo tính bẩm sinh thú tính thì chắc chắn những loại thú này chẳng thể ở chung và cũng chẳng bao giờ sống chung với nhau được. Nhưng tại sao tác giả lại đưa ra hình ảnh đẹp đẽ như thế? Dựa trên nguyên tắc nào, tác giả đưa ra hình ảnh này? Ngụ ý tác giả muốn nói gì?
Dĩ nhiên, tác giả không đưa ra hình ảnh thú vật để diễn tả cảnh tượng thiên cung nơi trần thế, mà cho rằng, dù sói có „bẩm tính ăn thịt chiên“ cũng sẽ ở chung với chiên được. Hay bò tơ và sư tử sống chung mà không cấu xé v.v. Đây là những viễn tượng ảo tưởng. Nhưng tại sao tác giả Ngôn sứ Isaja đưa hình ảnh này diễn tả viễn tượng hòa bình, đấng sẽ đem lại cho nhân loại?
Tác giả cho chúng ta thấy rằng, cho dù mỗi thú mỗi tính bất khả xê dịch theo định luật thiên nhiên, nhưng, khi Đấng Hoàng Tử Hòa Bình đến, sẽ đem lại cho chúng sự bình an này. Một viễn tượng sống chung trong hòa bình? Phép lạ?
Chúng ta hãy hoán chuyển thế giới thú vật qua thế giới con người! Con người cũng mang hình ảnh như những con thú với „thú tính“ kể trên. Hiền như chiên và lanh ác như sói cũng có. „Đao thủ khát máu“ như sư tử, ác độc nham hiểm như rắn hổ mang cũng chẳng thiếu. Cấu xé lẫn nhau như chó với mèo cũng đầy rẫy. Nhu mì hiền lành đơn sơ thật thà như chim bồ câu cũng có, vân vân và vân vân. Nói chung, trong mỗi con người chúng ta phản ảnh phần nào những „thú tính“ kể trên, không nhiều thì ít.
Chúng ta thường nói: „Cha mẹ sinh con, trời sinh tánh“. Ngay trong một cộng đồng nhỏ như gia đình chừng bốn, năm người con đã có nhiều tính. Họ sinh ra cùng cha cùng mẹ, cùng ăn cùng sống, cùng ở chung „chăn“ dưới một mái nhà, cùng được dạy dỗ bởi cùng cha mẹ, nhưng mỗi con mỗi tính, mỗi người con có những khuynh hướng nhận định và lối sống khác nhau. Cái bản tính bẩm sinh mỗi đứa mỗi khác đã lộ ra từ lúc còn nhỏ. Đứa thì dạn, đứa thì nhát, có đứa thì hiền, có đứa dữ, có đứa thật thà như đếm, có đứa gian manh điêu ngoa trộm cắp nói dối như Cuội, như Vẹm. Nhưng, cũng chính vì tính đa dạng trong một tập thể như thế, chúng ta mới có cơ hội mở rộng tư duy và khám phá ra khía cạnh mới của cuộc đời, nhờ sự khác biệt con người.
Nhưng trong thực tế lại khác: Chúng ta không học sự khác biệt xa lạ của nhau, mà ngược lại chúng ta loại trừ nó và ngay cả tiêu diệt nó: Người Do thái trong thời Đức Quốc xã; người da đen trong Hiệp Chủng Quốc Mỹ; người Công giáo thời đế quốc La-mã, thời Vua Minh Mạng, Thiệu trị, Tự Đức và nhất là vào thời Phong Trào Văn Thân năm 1885. Người Công Giáo bị khắc trên người hai chữ tà đạo. Và không riêng gì tại Việt Nam mà còn nhiều nơi trên thế giới, người Công giáo hiện nay vẫn còn bị coi là cái gai trong xã hội họ sinh cư lập nghiệp phải nhổ.
Chỉ trong phạm vi thật nhỏ là cộng đoàn gia đình, chúng ta đã thấy có những khác biệt về lề lối sống và tư duy. Trong một quốc gia với hằng chục hằng trăm triệu người thì chắc chắn có rất nhiều những dị biệt khác nhau.
Vậy, nguyên tắc nào để kiến tạo hòa bình trong một gia đình hay trong cộng đồng sinh hoạt của một quốc gia mà vẫn duy trì những ý thức hệ và nhân tính khác nhau? Dựa vào nguyên tắc căn bản nào mọi người con dân một nước mới hòa đồng, sống chung với nhau được?
Truớc hết, trong mỗi người chúng ta đều mang hai hình ảnh: „nhân tính“, tức là thiện tính, do trời phú (Nhân tri sơ tính bản thiện); Và „thú tính“ do ngoại cảnh tác động ảnh hưởng, còn gọi là ác tính. Bất cứ trong môi trường nào, nếu chúng ta không biết giáo dục trợ giúp tính thiện phát triển, thì tính ác sẽ trổi bật. (Dominant).
Môi trường nào dễ tạo tính ác? Một cơ chế guồng máy độc tài toàn trị về chính trị hay tôn giáo, đều là môi truờng thuận tiện nhất nuôi dưỡng tính ác. Từ cấp trên, tới cấp dưới. Đâu đâu cũng thấy sự gian ác lan tràn. Những nhà nước độc tài cực đoan tôn giáo và chính trị, trong đó có xã hội Việt Nam, hiện nay phản ảnh rõ điều này. Một quốc gia độc tài sẽ gây tai họa to lớn không lường được, không những đối với chính dân tộc của họ, mà còn là một đại hiểm họa cho nhân loại. Hiện nay, chế độ Bắc Hàn và Trung Cộng, đang chứng minh rõ điều này! Chế độ Phát xít Nhật và Đức, Liên xô cũ, tập đoàn cướp chính quyền Việt Cộng và tất cả những nước Cộng sản thế giới đối với dân tộc của mình, đều cho chúng ta kinh nghiệm qúy báu rằng, nơi đâu độc tài bạo lực thống trị, nơi đó nẩy sinh hận thù giết chóc và gian ác tràn lan.
Nguyên tắc căn bản để sống chung trong hòa bình và tự do, đó là phải biết tôn trọng tính khác biệt của nhau (Roma 15, 4-9). Chấp nhận tính tình khác biệt của nhau xem ra, nói thì dễ, nhưng thực hành không dễ. Có những người chúng ta tin rằng, mình sẽ dễ chấp thuận người này. Còn người khác thì tôi sẽ khước từ, vì họ khác tôi về ý thức hệ, khác về tôn giáo, phong tục v.v. Họ khước từ tôi, vì họ nghĩ khác tôi, sống khác tôi, nói khác tôi, ăn khác tôi v.v.. Trong những trường hợp như vậy, chúng ta dễ nói: tôi chỉ chấp thuận anh này, chị kia. Còn những người anh em kia tôi không chấp nhận.
Tôi còn nhớ, có một hôm trong buổi lễ kết thúc mãn khóa học, một em học sinh đại diện cho những em ra trường lên phát biểu. Em nói: „Chúng em thật sư cám ơn tất cả qúi thầy cô đã can đảm chấp nhận những bản tính của chúng em, như trời đã sinh ra chúng em như vậy!“.
„Những người can đảm“, em nữ học sinh đại diện các em ra trường phát biểu như vậy. Vâng, chấp nhận tính tình người khác cần cái DŨNG.
Cứ mỗi lần cử hành nghi thức Hôn Nhân, khi nghe đôi tân hôn thề hứa với nhau, khi họ nói: „Em nhận anh làm chồng“ hay „Anh nhận em làm vợ“. Họ dũng cảm thật! Tình yêu đã làm cho họ dũng cảm và dễ dàng chấp nhận những dị biệt của nhau. „Chấp nhận anh/em làm chồng/vợ“ là gì? Qua câu này, họ biểu lộ lòng trung tín với nhau. Họ chúc cho nhau sự tốt lành. Họ mong ước được sống ăn ở thuận hòa với nhau cho tới đầu bạc răng long. Họ muốn bày tỏ sự tôn trọng lẫn nhau thật cao qúy. Họ chấp nhận và chấp thuận nhau, không chỉ trong những giai đoạn „thương yêu mù quáng“ tức thời, mà còn cho suốt cuộc đời của họ. Cả hai, họ sẵn sàng „chấp thuận và thừa nhận“ những dị biệt của nhau không ngoại trừ mệnh đề „nếu“ hoặc „nhưng“. Họ sẵn sàng chấp nhận cá tính tốt cũng như tính tình xấu của nhau, trong ý nghĩa, không có mục đích gây thương hại nhau. Thật vậy, chấp thuận nhau đòi hỏi cái DŨNG! (Đâu là tính tốt và đâu là tính xấu, chúng ta tạm thời chưa khai triển ở đây. Vì cái tính tốt của anh, chưa chắc chắn 100% là cái tốt của tôi. Và cái tốt của anh, có thể là cái xấu của tôi. Tính tốt xấu là tương đối).
Trong một thể chế dân chủ chúng ta nhận ra được rằng, một trong những nhu cầu căn bản cần thiết cho đời sống được ổn định và sống trong hòa bình, đó là chấp nhận sự khác biệt của nhau, nếu sự khác biệt đó có mà không gây tổn thương thiệt hại cho người khác.
Nếu bạn cảm nghiệm được rằng, bạn được người khác chấp thuận, bạn cảm thấy thế nào? Chắc chắn bạn thấy tâm hồn phấn khởi, ngay cả nếu bạn cảm thấy làm cái gì đó sai trái. Nhưng nếu bạn cảm thấy bị loại trừ khước bỏ, mặc dù lương tri bạn cho rằng, việc làm đó hành động đó đúng với nhận xét của mình, thì bạn sẽ cảm thấy rụt rè và dễ dàng tự rút lui.
Dĩ nhiên, chúng ta không ngồi yên và chấp nhận những hành động gian ác, những hành vi độc hại độc tài, những ngôn từ điêu ngoa vu khống vô cớ gây tổn hại đến người khác. Những hành vi gian ác phải dùng luật pháp giam nhốt chúng lại.
Nhiều người trong chúng ta thường nghĩ: Trước hết nó phải thay đổi tính tình, thì tôi mới chơi lại với nó. Ngược lại là khác. Nếu chúng ta khước từ mọi giao dịch với họ, thì họ chẳng có cơ hội nào thay đổi được. Nhưng nếu chúng ta chấp thuận họ như ông trời đã sinh ra họ như vậy, thì cơ may, đối tượng dễ được thay đổi tính tình nhiều hơn.
Sự sẵn sàng chấp thuận và tôn trọng những cá biệt của nhau cũng tránh cho nhau những lời xin lỗi không cần thiết. Ngay cả „kẻ thù của ta“ (chúng ta chưa bàn đến kẻ thù là người Việt cộng), khi chúng ta chấp thuận bẩm tính của họ, cũng có thể, họ trở thành bạn thân hữu của ta. Và ngay cả trong chúng ta đây, bao nhiêu người trong chúng ta cũng cảm thấy đầm ấm, cuộc sống của mình thanh bình, khi người khác chấp nhận cá tính mình.
Cô bé học sinh nói đúng: Chấp nhận bản tính của người khác vô điều kiện cần cái DŨNG. Sự sợ hãi sẽ bị lợi dụng dĩ nhiên cũng làm chúng ta phải quan tâm đề phòng. Trí óc tính toán khôn ngoan của ta sẽ khuyên nhủ chúng ta nên thận trọng. Những dẫn chứng của kinh nghiệm xưa đã làm chúng ta thất vọng. Nhưng trái tim chúng ta biết rõ hơn hết: trái tim chúng ta biết rõ rằng, con người không sống trong bình an, không sống trong tự do, không sống đúng theo phẩm giá con người được, nếu họ không được người khác chấp nhận bẩm tính, lối suy nghĩ, niềm tin và cách sống của họ.
Kết luận
Trong một đất nước dân chủ thanh bình tự do thật sự thì mọi sự dị biệt khác nhau về phương diện tôn giáo, mọi khác biệt về tư duy, mọi khuynh hướng kinh tế, trào lưu chính trị xã hội, nếu những tư duy này không đưa đến thiệt hại cho con người và cộng đồng tập thể khác, không phạm pháp luật, thì nhất tề phải được chấp thuận và tôn trọng. Mọi người có quyền bày tỏ ý kiến của mình mà không phải sợ sệt, nếu những ý kiến này không nhằm vu khống vu oan cáo vạ cho người khác. Một đất nước dân chủ tự do thanh bình thịnh vượng người người được sống chung trong hòa bình chỉ thành công, nếu và chỉ nếu, mọi khác biệt đa dạng về tôn giáo và tư duy chính trị kinh tế xã hội phải được chấp thuận, tôn trọng và phải cư xử, xét xử và đối xử với nhau công bằng trên mọi khía cạnh. Có nghĩa, mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật. (Nước đa nguyên pháp trị). Sự kỳ thị tôn giáo hay kỳ thị người thuộc dân tộc thiểu số, vùng miền v.v. đều không tạo nền văn minh sống trong tự do hòa bình.
Không một cá nhân nào tự phong cho mình vừa là chánh án, vừa là công tố viên và vừa là đao thủ xét đoán, kết án và hành quyết. Mọi hành vi bạo ngược sai trái phải được giải quyết qua tòa án Công minh. Mọi mưu đồ gian manh phá rối: không chấp nhận cá tính và dị biệt cá nhân, phải loại trừ ra khỏi nền thể chế dân chủ nhân bản tự do!
Những tư tưởng tôn giáo cực đoan mọi rợ mang tính loại trừ nhau cũng phải sa thải. Vì đây là mần nống tư tưởng gian manh độc tài thâm độc. Những hình thức độc tài độc đoán độc tôn toàn trị trà đạp nhân phẩm con người, đều không có chỗ cho một nước dân chủ tự do thanh bình.
Một nền dân chủ tự do chỉ mới được hình thành và mọi người sẽ được sống trong hòa bình ấm no thịnh vượng, nếu và chỉ nếu, thể chế này hấp thụ và chấp nhận được những điều kiện và tiêu chuẩn nói trên!
Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh
Đức quốc; thứ tư, ngày 8 tháng 12 năm 2010:
Lễ trọng kính Đức Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội.
Nguồn: https://luongtamconggiao.wordpress.com/2010/12/11/vi%E1%BB%85n-t%C6%B0%E1%BB%A3ng-hoa-binh-t%E1%BB%B1-do-cho-vi%E1%BB%87t-nam-th%E1%BB%9Di-h%E1%BA%ADu-c%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n/Khác biệt giữa người tự do và người cộng sản
1. Người cộng sản tin cá nhân phải bị hy sinh vì lợi ích của quần chúng; người tự do rất tôn trọng giá trị và tánh ngay thẳng của cá nhân.
2. Người cộng sản hiểu và hiểu sai lịch sử vì mục đích riêng của mình; người tự do nghiên cứu lịch sử một cách trung thực để học hỏi từ lịch sử.
3. Người cộng sản lợi dụng những vấn đề và khiếm khuyết của chủ nghĩa tư bản để khích động phẫn nộ và xung đột giai cấp; người tự do chỉ ra những vấn đề ấy, nhưng cố gắng giải quyết chúng.
4. Người cộng sản tin rằng chính quyền là chủ của nhân dân; người tự do tin rằng chính quyền là đầy tớ của nhân dân.
5. Người cộng sản sẽ đả kích những người theo đảng xã hội và đảng cấp tiến còn dữ dội hơn khi họ đả kích người theo đảng bảo thủ; người tự do thường đồng ý và thỏa hiệp với người có cùng quan điểm chung.
6. Người cộng sản, để đạt được những mục tiêu tưởng như lý tưởng tươi sáng, xử dụng bất kỳ phương tiện nào có sẵn với họ-dối trá, tống tiền, đổ máu, ám sát; người tự do, mặc dù trong đầu có thể có nhiều cứu cánh tương tự, nhưng xử dụng phương tiện chính trực.
7. Người cộng sản dùng nghệ thuật-văn chương, hội họa, âm nhạc- theo quan điểm phải hoàn toàn có lợi, để đẩy mạnh mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản thế giới; người tự do biết thưởng thức nghệ thuật vì nghệ thuật.
8. Người cộng sản "phục vụ" tuyệt đối không biết mỏi mệt cho một tổ chức mà họ muốn kiểm soát. Họ sẵn sàng làm bất kỳ điều gì, kể cả ở lại họp cho đến 3 giờ sáng, nhưng tiếc thay vào lúc đó, người tự do không cộng sản đã đi về nhà.
9. Người cộng sản, mặc dù họ giả vờ không lệ thuộc ai, nhưng họ luôn luôn nhận lệnh từ cấp trên; người tự do thì tự mình quyết định lấy.
10. Người cộng sản, vì nhận lệnh từ cấp trên, nên đôi khi bị lâm vào thế kẹt bởi sự thay đổi nhanh chóng và đột ngột trong chính sách của đảng; người tự do có thể thay đổi ý định nhưng thay đổi rất chậm, đau đớn, và tự nguyện.
11. Người cộng sản tham gia vào hoạt động kín đáo, bí mật. Họ cảm thấy họ cần che giấu điều gì đấy. Người tự do hoạt động hướng về mục tiêu rõ ràng và công khai.
12. Người cộng sản luôn luôn dùng bạo lực, mặc dù họ tìm mọi cách che giấu bạo lực; người tự do luôn luôn dùng những cách thức ôn hòa. Người này thì cách mạng, người kia thì tiến hóa.
13. Người cộng sản, giống như những kẻ cai trị toàn trị khác, quan tâm chủ yếu đến những phong trào thanh niên để họ qua đó chiếm đoạt tâm hồn của giới trẻ; người tự do quan tâm đến giáo dục thanh niên nhưng không kiểm soát tâm hồn giới trẻ.
14. Người cộng sản nghi ngờ tất cả mọi người, không chỉ kẻ thù của họ mà còn cả các bạn đồng chí của họ. Đảng không ngừng theo dõi các đảng viên của mình. Người tự do không có lý do để nghi ngờ, và chính vì lẽ ấy đôi khi họ rơi vào bẫy của cộng sản.
15. Người cộng sản tin rằng một nhóm nhỏ, gắn bó mật thiết với nhau (những người tiên phong) nên lãnh đạo; người tự do không phân biệt rõ ràng lắm giữa lãnh đạo và đồng đội.
16. Người cộng sản thường dùng ngôn ngữ Mác-xít; người tự dọ cố gắng diễn đạt bằng từ vựng tiếng mẹ.
Nguồn:
Dịch từ tuần báo Mỹ The Saturday Review số ra ngày 5 tháng Tư 1952, trang 20.
Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2018/09/khac-biet-giua-nguoi-tu-do-va-nguoi.html#more
Nhận xét
Đăng nhận xét