Chân Dung Người Lính VNCH
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
Chân Dung Người Lính VNCH
Post by khieulong » Fri Jun 07, 2013 6:44 am
Viết Cho Một Quân Lực Bất Hạnh Nhất Trong Lịch Sử!
“Có những thứ hòa bình còn tồi tệ, kinh tởm gấp trăm lần chiến tranh! Buồn thay kẻ ác đã thắng cuộc!”

Thống Tướng Westmoreland xin lỗi các Cựu Qu ân Nhân QLVNCH.
"Chúng ta không thua tại Việt Nam,
nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết đối với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đồng minh của chúng ta."
"Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn Cựu Quân Nhân của Quân Lực Miền Nam Việt Nam
vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn!"
(On behalf of the United States Armed Forces,
I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys.)
General William C. Westmoreland
Post by khieulong » Fri Jun 07, 2013 7:08 am
VIẾT CHO NGÀY QUÂN LỰC 19 THÁNG 6:
NÀY BAO HÙNG BINH TIẾN LÊN !
Người Lính Lê Văn Hải
Qua gần nửa thế kỷ, con số đúng nhất là đã 38 năm bền bỉ, vào mỗi tháng 6 Dương Lịch, đúng Ngày 19 Tháng 6, tại khắp các quốc gia trên thế giới, nơi nào có người Việt tỵ nạn, trong tinh thần tri ân,cảm mến những người đã hy sinh xương máu bảo vệ quê hương, nơi đó đều có tổ chức những buổi lễ trọng thể nhằm tưởng niệm vinh danh những Người Lính Việt Nam Cộng Hoà.
Trong dịp này, ngoài những buổi lễ có hình thức kỷ niệm, văn nghệ, hay diễn hành trang trọng, nhắc nhở cho mọi người nhớ lại những hình ảnh của người lính thân yêu của miền nam Việt Nam trước năm 1975. Các cơ quan truyền thông Việt, Mỹ khắp nơi cũng trình bày nhiều tài liệu lịch sử, nhận định về một quân lực, đánh giá cao về sự can trường của những người lính và những khó khăn mà một quân đội phải đảm đương, phải vượt qua suốt trên hai mươi năm dài, qua hai nền Cộng Hoà trẻ trung, cuối cùng bị ... đồng minh bội phản bức tử đau thương, hờn tủi !
Riêng những nhà nghiên cứu về lịch sử, quân sử qua thời gian dài lắng đọng, nhận định đúng sai về cuộc chiến Việt Nam đều đồng ý rằng: Trong lịch sử thế giới thế kỷ gần đây, chưa có một quân đội nào phải gánh chịu nhiều đau thương, nghiệt ngã, tủi nhục như quân đội VNCH. Một quân lực có lúc được coi như hùng mạnh nhất miền Đông Nam Á, quân số lên đến cả triệu. Quân đội đó đã từng chiến đấu anh dũng, hiên ngang đối mặt với kẻ thù Cộng Sản trên khắp các mặt trận, đã từng chiến thắng vinh quang, đã từng gây cho kẻ thù những tổn thất kinh hoàng, nặng nề trên khắp vùng lãnh thổ. Giữ từng tấc đất quê hương, chưa bao giờ “hèn với giặc, ác với dân,” không hề dâng cúng, sang nhượng một tấc đất nào của tổ tiên cho bất cứ thế lực ngoại bang nào, hiên ngang bảo vệ quê hương kéo dài trên hai thập niên. Vậy mà chỉ có một sớm một chiều, quân đội hùng dũng ấy lại bị tan hàng, buông súng, dẫn đến tháng Tư tang thương, để từ đó dân tộc Việt Nam phải chìm xuống vũng lầy đỏ đến bây giờ vẫn chưa tìm ra lối thoát! Tại sao? Tại ai?
1. LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐÓNG ĐINH MỘT QUÂN LỰC OAI HÙNG VÀO THẬP GIÁ ?
Đó là dùng kỷ thuật cổ xưa như trái đất, nhưng khi áp dụng, lúc nào cũng có kết quả. Tích xưa kể rằng: Có một người kia muốn làm thịt con chó nhà hàng xóm, hắn ta chờ con chó ra đường rồi rượt theo, la lớn: "Bớ làng nước ơi, con chó điên này nó định cắn tôi"! Thế là mọi người hưởng ứng tức thì, người cầm gậy, người đá, người đấm, con chó chết tươi! Nhìn con chó chết, kẻ lập mưu cám ơn mọi người rồi xoa tay nói lời ân nghĩa: "Để nó chết bờ chết bụi tội nghiệp, tôi xung phong đem nó về chôn"! Ai cũng khen anh ta biết lo chuyện an nguy cho mọi người và là kẻ tốt bụng! Đúng là được cả tiếng lẫn miếng! Vì thế, cổ nhân đã tóm gọn trong câu: "Muốn giết chó, hãy gọi nó là con chó điên"!
Mưu kế hèn hạ này cũng đã được dùng để giết chết một quân đội oai hùng. Một đồng minh bội ước, tham lợi hơn tình, cấu kết với quân thù tạo nên phong trào phản chiến, bôi bẩn hình ảnh những người lính anh hùng, đang ngày đêm xả thân chiến đấu bảo vệ lý tưởng tự do. Thật đúng với câu:"Khi đồng tiền và quyền lợi xâm chiếm, lương tâm sẽ đội nón ra đi"! Ôi buồn thay số phận đen đủi cho một quân lực nghiệt ngã!
Với Chúa Cứu Thế, người chủ trương hoà bình, yêu thương với cả ... kẻ thù! "Vã má này, đưa tiếp má kia" cho kẻ muốn đánh mình đánh tiếp. Hoàn hảo như thế làm sao có lý do để giết? Dễ thôi. (Lại dùng phương pháp chó điên, cổ như trái đất.) Đổ cho Ông là người có máu cách mạng, muốn lật đổ chính quyền để làm ... Vua! Chỉ cần một lý do sơ đẳng này, đã quá đủ để “rửa tay” đem nạn nhân ra “đóng đinh” giết thoải mái.
Đau đớn thay một quân lực, chỉ vì quyền lợi của những cường quốc, những tham vọng thoả hiệp trên bàn cờ quốc tế, đồng minh tin cậy nhất đã phản bội họ, đâm sau lưng họ, bằng "một nụ hôn Du Đa bán Chúa" qua Hiệp Định Bàn Tròn Ba Lê năm 1972, từ đó ngưng tiếp tế vũ khí, trói tay bạn trên chiến trường, lũng loạn hậu trường chính trị để làm nản chí và mất niềm tin chiến đấu, tạo điều kiện thuận lợi và dọn đường cho bọn Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam.
Lạ lùng thay, quân lực VNCH khi bị bỏ rơi, vẫn kiên nh ẫn, vẫn kiên cường chiến đấu đơn độc, vẫn chiến đấu dũng cãm chống kẻ thù đông hơn gấp bội, vũ khí tối tân và dồi dào hơn gấp nhiều lần, với sự yểm trợ tích cực không điều kiện từ tinh thần đến vật chất của Liên Xô, Trung Quốc và cả khối Cộng Sản Quốc Tế. Quân lực VNCH vẫn gan dạ, sừng sững như núi, hy sinh vững vàng chiến đấu. Nếu cấp chỉ huy của họ không ra lệnh buông súng, sáng suốt không áp dụng chiến thuật “triệt thoái cao nguyên,” quyết định sống mái tới giây phút cuối cùng. Thì chưa chắc ngày hôm nay phần thắng đã thuộc về ai!
Niềm đau bị bức tử không chỉ nằm trong việc bị đồng minh phản bội, không cho người lính VNCH có cơ hội một mất, một còn đọ sức với quân thù. QLVNCH thất trận không phải vì thua kém, mà vì không có cơ hội chiến đấu. "Cọp trong cũi sắt phải giương mắt nhìn", để đám khỉ “nhảy bàn độc” mặc tình bày trò nhố nhăng. Những niềm đau, nỗi nhục sau khi cuộc chiến kết thúc, đã kéo dài suốt gần nửa thế kỷ và còn mãi mãi, chết vẫn chưa quên! Như vết sẹo hằn sâu trên cơ thể nhắc nhở hoài đau thương, chỉ cho đến khi nào QLVNCH có cơ hội chiến thắng lại kẻ thù qua bất cứ hình thức nào, thì niềm đau kia mới phai mờ.
2. TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ
Trở lại chiến dịch hèn hạ bôi bẩn để bức tử một quân lực kiêu hùng, quân thù đã cấu kết với bọn ngụy hoà bôi nhọ hình ảnh người lính VNCH. Nào là quân đội ấy chỉ có những tướng tá (nhất là từ gốc Tây) tồi tệ tham nhũng, những quân nhân vô kỷ luật hèn nhát, bỏ chạy trước quân thù, giỏi hà hiếp dân, đi đến đâu thì ăn cắp gà, cắp heo.. thật là rừng rú! Hình ảnh tướng Loan xử bắn tên đặc công Việt Cộng Bảy Lốp tại Chợ Lớn là một bằng cớ để buộc tội tính chất dã man (?), ngậm máu phun người của kẻ thù và bọn tay sai . Đám bất lương này nâng cao kẻ thù lên tận mây xanh, báo chí phản chiến thì đăng hình ảnh chị tài tử Jane Fonda ngồi vắt vẻo, tươi cười bên họng súng phòng không, có các "anh bộ đội " vây chung quanh hít hà, bên cạnh tấm ảnh người lính VNCH đang chỉa súng vào đầu một người dân (thật ra chỉ là tên Cộng Sản trá hình.) Nhưng nào ai biết lòng lang dạ thú và mưu mô xảo quyệt của Việt Cộng đã dàn dựng. Dư luận thế giới vẫn cứ tin. Chiến dịch bẩn thỉu này đã dìm hình ảnh người lính VNCH xuống tận bùn đen mà không có cơ hội được giải thích, kéo dài mãi trong cuộc chiến.
Nhưng sau tháng Tư 1975, hình ảnh "hiền từ "(?) của kẻ chiến thắng đã hiện nguyên hình là những tên đồ tể khát máu đã làm thế giới sửng sốt. Trại tù "cải tạo" mọc lên khắp nước, hàng triệu người phải liều mình bỏ nước ra đi, một phần ba số người này đã vùi thân trong lòng biến cả hoặc nơi rừng sâu nước độc, khi tìm đường chạy trốn bọn người "giải phóng". Các lương tâm thật sự lu mờ hay cố tình lu mờ, nhắm mắt nay bắt đầu nhìn thấy đâu là sự thật, đâu là chính nghĩa. Và hầu như ai cũng đều đau sót công nhận “kẻ ác đã thắng cuộc!”
Bây giờ thì đã quá trễ để người đồng minh hối hận chuộc lại những tội ác tày trời khi nhẫn tâm bỏ rơi (bên thua cuộc) miền Nam vào tay Cộng Sản. Đã bắt đầu có những bài báo thú nhận những lỗi lầm trong việc bôi bẩn một quân lực dũng cảm. Hàng chục lời xin lỗi từ những giới chức cao cấp nhất có liên hệ đến cuộc chiến. Tác giả chụp tấm hình tướng Loan đã ngỏ lời xin lỗi. Đài kỷ niệm các chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam mọc lên khắp nơi, hình ảnh người lính VNCH đã chiến đấu cho tự do cũng được vinh danh. Miền Nam Cali một tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ vinh danh trang trọng. Rồi Úc châu, Canada…phải một một thời gian, những sự thật đã trả lại cho lịch sử. Điển hình nhất là Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ lại được quý trọng tung bay trên bầu trời khắp các quốc gia tự do trên thế giới.
Hàng loạt những tác giả đã biết nhận thức đúng hình ảnh của người lính mà họ từng gọi là "bé nhỏ ", nhưng có một tấm lòng dũng cảm bao la, một lý tưởng cao cả vì dân vì nước mà chiến đấu và hy sinh thân mình.
Điển hình, trên tiêu đề Heroic Allies, tạp chí Việt Nam tháng 8, 1994, tác giả Hary F. Noyes đã viết như sau: "Thật đau lòng khi có nhiều cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam lại đi cấu kết với đám phản chiến, với những tên trốn quân dịch và bọn chính khách hoạt đầu, xúm nhau vào hèn hạ bôi lọ một quân lực không có một cơ hội để tự bào chữa. Nhục mạ một quân đội bị phản bội vì chính đồng minh của mình, hành động đó thật đê tiện, bất xứng.
Trong bài này, tôi sẽ nêu ra một số bằng chứng xác đáng để phản bác lại các luận điệu đê hèn khốn nạn đó.
Họ mạ lỵ ngưới lính VNCH thiếu tư cách, lòng can đảm và tinh thần ái quốc ?
Bằng chứng đâu họ nói như thế. Chỉ riêng trận đánh Tết Mậu Thân đã chứng minh dư thừa khả năng chiến đấu tuyệt vời của họ. Cộng Sản với ý đồ đánh lén, bất ngờ tổng công kích vào thời gian thiêng liêng nhất trong năm, nhằm bẻ gãy ý chí phòng thủ của miền Nam. Nhưng chúng đã thất bại nặng nề, binh sĩ VNCH đã chống trả mãnh liệt, không một đơn vị nào tan rã, tháo chạy. Thậm chí cảnh sát , nhân dân tự vệ, với vũ khí thô sơ đã chống lại những lính chính quy Bắc Việt, trang bị vũ khí hạng nặng. Tất cả phần đất địch tạm chiếm, QLVNCH đã chiếm lại, tại Cổ Thành Quảng Trị cờ Vàng lại bay trên thành phố thân yêu! Sau thời điểm này, số người tình nguyện nhập ngũ bảo vệ đất nước lên qúa cao, đến nỗi chính phủ phải ngưng tuyển mộ lính trong một thời gian dài. Nếu thiếu lòng can đảm, tinh thần ái quốc, sao họ làm được công việc thần thánh đó ?
Rồi trong trận chiến mùa hè đỏ lửa năm 1972, các chiến binh VNCH bị vây hãm tại An Lộc đã anh dũng tử thủ chống trả lại lực lượng hùng hậu của địch, kèm theo những trận mưa pháo triền miên bất tận, vậy mà cuối cùng họ cũng đã đè bẹp được những trận tấn công liên tục của các chiến xa địch quân. Một cố vấn Mỹ đã kể lại : "Chỉ có một tiểu đội Bộ Binh, lại được lịnh phải phá huỷ 3 cỗ xe tăng của địch. Ông tiếp tục kể, như lạc vào chuyện thần thoại, các binh sĩ này lại có ý định bắt sống những chiếc xe tăng kia, lạ lùng thay họ gần làm được điều đó, họ bắt sống được 2, chỉ còn một chiếc chạy thoát!”
Những hành động đó đã nói lên tinh thần chiến đấu cao độ và sáng kiến tác chiến, quân đội nào có thể thực hiện được điều đó, than ôi, thế mà họ vẫn bị cáo buộc là hèn nhát, chưa đánh địch đã bỏ chạy.
Một thí dụ khác nói lên cái nhìn thiên lệch của bọn truyền thông hèn nhát thành kiến. Đó là trận vây hãm ở Khe Sanh, họ cho chiến thắng đó là do nhờ đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến của Hoa Kỳ, nhưng họ đã quên hơn một tiểu đoàn Biệt Động Quân đã cùng sánh vai chiến đấu, chia xẻ nỗi gian lao mới có chiến thắng kể trên! Nếu không có đơn vị thiện chiến này, trận đánh Khe Sanh không còn được nhắc nhở. Bất cứ tình cảnh nào, họ vẫn là những người lính dũng cảm".
Đại tá Robert Monelli đã kể lại trên báo Armed Force Jounal số 19 tháng Tư năm 1972 như sau: "Thật là một phép lạ, một tiểu đoàn VNCH với khoảng 429 binh sĩ, bị bao vây liên tiếp trong 3 ngày bởi một trung đoàn Cộng Sản từ 2,500 đến 3,000 tên. Vì địa thế hiểm nghèo không thể tiếp tế cho họ được, nên họ đã phải chiến đấu cho đến hết đạn, rồi mở đường máu bằng chính khí giới tịch thu của địch. Kỳ diệu thay, họ đã mang theo tất cả binh sĩ bị thương, cả những xác chết đồng đội của họ. Cố Vấn Mỹ không tin, cho không ảnh thám sát, chụp hình đếm được đúng 673 xác địch nằm ngổn ngang chung quanh căn cứ. Đến bây giờ ông vẫn không hiểu tại sao họ đã làm được những điều lạ lùng như thế! Họ là những người lính chiến đấu lạ lùng cừ khôi, gan dạ.”
Rồi một luận điệu khác, nếu anh dũng như vậy, sao không chịu đánh đến viên đạn cuối cùng? Trách người sao không nghĩ đến ta. Nếu binh sĩ Hoa Kỳ bị bỏ rơi như binh sĩ miền Nam Việt Nam, có lẽ họ ứng xử chẳng có gì khá hơn, ngược lại còn tệ hơn nhiều.
Hãy nhớ là Hoa Kỳ đã cắt viện trợ nặng nề từ năm 1973, hậu quả là không còn nguyên liệu, đạn dược đủ cung cấp cho chiến trường. Phi cơ, quân xa nằm ụ trong bãi, đại bác chỉ được bắn tối đa 3 trái mỗi ngày, họ bị trói tay toàn diện.
Chính điều này đã được tướng VC Văn Tiến Dũng công nhận trong tác phẩm Đại Thắng Mùa Xuân của y: "Từ khi Mỹ cúp viện trợ, khả năng di động và hoả lực của quân đội VNCH sa sút hơn phân nửa, chính vì đó mà quân dội Miền Bắc mới có cơ hội chiến thắng". Thiếu phương tiện chiến đấu như thế vậy mà Cộng Quân vẫn phải kinh khiếp, 30 tháng Tư "họ vẫ n không ngờ là họ đã thắng"!
Thành thật mà nói, chính vì lịnh chỉ huy sai lầm của những tướng lãnh của họ, quân đội VNCH đã chiến đấu gần như tầm thường trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, ngoại trừ trận đánh hào hùng tuyệt hảo cầm chân địch tại mặt trận Xuân Lôc.
Họ chỉ bất hạnh một điều là đã cộng tác với một đồng minh thiếu sự chân thành. Nếu được yểm trợ đầy đủ, họ có thể tạo ra những trận thư hùng nẩy lửa, không thua bất cứ một quân lực n ào trên thế giới này! Chúng ta có lỗi lầm bỏ lỡ cơ hội cho họ có dịp cứu vãn đất nước. Ngoảnh mặt cho tội ác chiến thắng công lý, lịch sử Mỹ mang một vết nhơ suốt đời không thể gột rửa. Có xin lỗi thì đã muộn, cũng bằng thừa mà thôi.”
3. VƯƠN LÊN TỪ ĐAU THƯƠNG, BIẾN ĐAU THƯƠNG THÀNH HÀNH ĐỘNG, HOA TỰ DO PHẢI ĐƯỢC TƯỚI BẰNG MÁU !
Hơn hai trăm năm mươi ngàn (250,000) chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đã bỏ mình trong cuộc chiến, họ đã vì dân vì nước mà hy sinh thân mình. Đây là những hạt giống để cánh đồng tổ quốc không chóng thì chầy, sẽ nở hoa Tự Do. Rất nhiều nhà tranh đấu cho tự do dân chủ trong nước hiện nay cảm hứng được chính nghĩa sáng ngời của VNCH, họ đang dùng nó như thuốc súng để chống lại chế độ CS độc tài tuyên truyền xảo trá.
Lịch sử dân tộc nào cũng đã chứng minh, nếu biết biến đau thương thành hành động sẽ là sức mạnh vô biên. Đau thương là kho tàng vô tận nếu ta biết khai thác. Nếu người Do Thái không bị đưa hàng triệu người vào phòng hơi ngạt, đã không có nước Do Thái như ngày nay. Nếu chồng Bà Trung Trắc không bị giết, chưa chắc chúng ta đã có một trang sử lẫm liệt oai hùng như thế .
Nếu phải nung nấu đau thương như người dân nước Việt bên Tầu thưở xưa, chất gai nhọn làm giường, treo túi mật trước mặt. Khi nằm trông thấy cái mật, khi ăn thì nếm xem mật đắng ra sao. Thấm thía nỗi đau từ thể xác đến tâm hồn của đoạn trường thâu canh, nuốt nỗi đắng tê rụng rời của kẻ mất nước, từ vua cho đến dân, bền gan vững chí phục thù, cuối cùng cũng lấy lại được giang san. Nên nhắc lại những hình ảnh bạo tàn của Cộng Sản đối xử với người lính chế độ cũ, cũng là mục tiêu số 1 để trả thù, mang chịu nhiều thương tổn nhất, sau khi người Cộng Sản chiếm được cả đất nước, tưởng cũng là điều cần thiết cho sự quang phục quê hương.
*Làm sao quên được hình ảnh hàng ngàn người thương binh, què cụt đó, trên mình mang đầy thương tích, lê lết rời khỏi nơi họ đang nằm điều trị tại các Quân Y Viện ngay trong những ngày đầu tiên khi Cộng Sản vừa cưỡng chiếm miền Nam.
Chúng đã tàn ác đuổi những thương binh này ra đường để lấy chỗ cho những thương binh của chúng và nhất là để trả thù. Không ai biết được số phận của những người bị thương nặng không thể đi được, ra sao. Và ngay cả những người lê lết kia, nếu quê họ ở xa, thì làm sao họ có thể trở về với gia đình để được những người thân săn sóc.
*Làm sao quên được những cái chết hào hùng và bi thảm của những Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần Văn Hai , Hồ Ngọc Cẩn, Lê Ngu yên Vỹ, Phạm Văn Phú và hàng trăm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ đã tuẫn tiết trong ngày cuối cùng của cuộc chiến, làm cho chính kẻ thù cũng phải kinh ngạc và trang sử bi hùng này mãi mãi làm mọi người dân phải thán phục.
*Làm sao quên được hình ảnh của hàng trăm trại lao động khổ sai rải rác suốt từ Bắc chí Nam vào giữa thập niên 1970 và suốt thập niên 80 mang mỹ danh là "Trại Học Tập Cải Tạo ". Trại cấp trung ương, trại cấp tỉnh, trại cấp huyện, trong đó hàng trăm ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan , binh sĩ Cộng Hoà kéo dài cuộc sống đầy đoạ, bị lăng nhục về tinh thần, bị hành hạ về t hể xác và có người dã sống trong tình trạng đó trong gần hai chục năm trường.
*Làm sao quên được nhừng người bạn cùng chiến đấu đã bỏ nắm xương tàn tại nhừng nơi rừng sâu núi thẳm vì không chịu đựng được sự hành hạ của trại tù Cộng Sản, đói không có cơm, đau không có thuốc.
*Làm sao quên được cảnh tượng những người chết chẳng được yên mồ: Bao nhiêu nghĩa trang quân đội bị Cộng Sản đập phá, đào bới nhằm lăng nhục và trả thù cả những người đã nằm xuống. Hèn hạ đến thế, chết cũng không được yên!
Chỉ bấy nhiêu thôi đã quá đủ cho lời thề một mất một còn với quân thù Việt Cộng, những kẻ không còn tim óc mà loài thú hay quỷ hoả ngục cũng không có những hành động dã man, tàn tệ như thế đối với đồng loại của chúng.
*38 năm qua họ làm được gì, quê hương vẫn bị xếp vào hành những quốc gia nghèo đói nhất trên thế giới. Phụ nữ trẻ em được bán làm nô lệ tình dục cho đàn ông khắp nơi. Không độc lập, không tự do! Cắt đất, nhượng biển cho quan thầy, nhằm giữ vững ghế cai trị cha truyền con nối. Bắn ngư dân mà không đám nêu đích tên, chỉ dám gọi là tầu lạ! Nhu nhược với giặc, hung ác với dân.
Than ôi ! Chẳng có chữ nghĩa nào diễn tả, viết đến cạn máu tim cũng không thể nào tả hết nỗi oán hận thấu trời này. Như người thợ rèn, biết biến thanh sắt vô dụng thành gươm báu, biến đau thương thành lời thề, ý chí, niềm tin.
Anh linh tử sĩ của hơn 250,000 chiến sĩ VNCH cùng với hồn thiêng sông núi sẽ luôn luôn yểm trợ chúng ta trên con đường đấu tranh, một ngày nào đó sẽ giúp chúng ta lấy lại được quê hương trong tay những kẻ man rợ.
NÀY BAO HÙNG BINH TIẾN LÊN !
Năm 1976, Indonesia cưỡng chiếm Đông Timor là một nước Dân Chủ Cộng Hoà bé nhỏ, với diện tích 14,874 km2 và dân số vỏn vẹn dưới một triệu người, nói chính xác là 714,847 công dân .
Đông Timor chiến đấu liên tục bền bỉ gần 25 năm! Với hàng ngàn người chết, hàng vạn người mất tích, tù đầy vì lý tưởng tự do, độc lập thật sự cho quê hương họ .
Cuối cùng người dân Đông Timor đã giành lại được độc lập, trở thành quốc gia đầu tiên trong tân niên kỷ, làm cả thế giới ngả nón ngưỡng mộ và khâm phục !
Sự kiện kiên trì đấu tranh của một dân tộc nhỏ bé kia trong cuộc chiến không cân sức, đã cho chúng ta rút tỉa ra một bài học đấu tranh đáng giá . Phải chăng cuộc chiến thắng anh dũng thần thánh đó, cứ lớp người này ngã xuống thì lớp khác tiếp tục đứng lên, miễn là cùng một lòng bền gan, vững chí thì bạo quyền nào cũng khiếp sợ, thế lực nào cũng phải lùi bước, chắc chắn đẫn đến thành công.
Sức mạnh không nằm ở vũ khí, quân đội, mà nằm ở lòng người. Trang sử oai hùng dân tộc Việt đã chứng minh bao lần nguyên lý vững chắc này. Giặc phương Bắc đông như kiến cỏ, nhưng một hội nghị Diên Hồng, giặc kia cũng phải tiêu tan.
Chúng ta hôm nay còn có gì để tự lực đấu tranh? Nhiều người bi quan hỏi như vậy. Xin thưa, chúng ta còn, còn rất nhiều, còn tất cả các yếu tố tất thắng! Nhất là rất đắc lực trong công tác yểm trợ đấu tranh quốc nội.
*Chúng ta còn giòng máu quật cường, bất khuất hun đúc lưu truyền bao đời từ các đấng tiền nhân diệt giặc giữ nước.
*Chúng ta còn sĩ khí của những kẻ đã từng một đời phụng sự dưới ngọn cờ Vàng ba sọc đỏ. Còn tình đồng đội thiêng liêng Huynh Đệ Chi Binh luân lưu trong dòng máu.
*Chúng ta còn đầy đủ chính nghĩa, ý chí để biến những thất bại, đau thương thành hành động tích cực đấu tranh cho tự do.
*Chúng ta còn trách nhiệm chưa hoàn thành trước Tổ Quốc, dân tộc hiện vẫn đang bị điêu đứng, lầm than. Cuộc chiến của chúng ta vẫn chưa chấm dứt, chưa có lệnh giải ngũ! Phải bền gan chiến đấu cho đến ngày toàn thắng bọn quỷ đỏ mới thôi.
*Chúng ta còn bè bạn và thế giới hiểu biết sẽ hỗ trợ chúng ta, qua chiến dịch Cờ Vàng là bằng chứng hiển nhiên nhất, còn nhân dân trong nước và đồng bào hải ngoại sẽ đồng loạt đứng dậy cùng với chúng ta hành động. Những lớp trẻ ngày qua chấp nhận tù tội đang hăng hái tham gia, báo hiệu một buổi sáng bình minh, sắp qua những ngày tăm tối.
Giờ đã điểm, đã có nhiều dấu hiệu bọn bán nước cầu vinh sắp bị lật đổ, trả nợ những tội ác gần một thế kỷ mà chúng đã gây ra.
Hai trăm năm mươi ngàn đồng đội của chúng ta đã làm xong nhiệm vụ, mang thân đền nợ nước, còn chúng ta? Thân phận trôi nổi trên xứ người, vật chất thời gian đang làm phai mờ tình chiến hữu, không thể một sớm một chiều quên cả màu cờ sắc áo của một thời phục vụ hay chiến đấu, một thời vinh quang hay điếm nhục, đau xót tội tù. Thử hỏi chúng ta cứ “cúi đầu xuống cát,” chỉ cần kiếm sự an nhàn cho thân mình và gia đình, mai kia xuống mộ thì trả lời ra sao với những đồng đội đã hy sinh, với các đấng anh hùng đã khuất ?
HĂNG HÁI THAM GIA CUỘC ĐẤU TRANH. CUỘC CHIẾN SAU CÙNG VẪN CÒN ĐÂY, ĐÀO NGŨ LÀ HÈN NHÁT!
Hiên ngang hào hùng bước theo tiếng Mẹ kêu! Không còn súng, nhưng máu “người lính’ vẫn còn đây, săn tay áo chiến đấu với quân thù dù…bằng tay không! Các bạn đồng đội ơi, chờ tôi với! Hãy dành cho tôi một mộ phần để được nằm bên các bạn, hãy dành cho tôi một vinh dự, nhớ chừa cho tôi một lá quốc kỳ để gói trọn thân xác này tan rữa thành phân bón cho đất Mẹ có ngày nở hoa. Cho tôi tham gia vào trận đánh cuối cùng này. Có như thế, tôi mới trả nợ xong một thời mang trên người bộ quân phục " TỔ QUỐC, DANH DỰ VÀ TRÁCH NHIỆM." Bằng không tôi trả lời thế nào, khi các đồng đội đã khuất tra hỏi “Mày đã làm gì …để tiêu hết nửa đời sau?”
“Xin cho tôi một mộ phần, bên người Chiến Hữu của tôi!”
QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ MUÔN NĂM !
Kỷ niệm Ngày Quân Lực 2013
Người Lính Lê Văn Hải
Post by khieulong » Mon Jun 10, 2013 3:17 am
Phan Nhật Nam - Dựa lưng nỗi nhớ
Đào Vũ Anh Hùng
Lần cuối cùng, tôi gặp Phan Nhật Nam, vào một sáng Chủ nhật, đâu khoảng hơn tháng trước ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản. Nam đang đứng nói chuyện với nhà văn Vũ Bằng và nhà văn Mặc Thu trên lề đường trước nhà ông Chu Tử và vợ chồng Đằng Giao, 104 đường Công Lý. Thấy Nam trẻ trung tươi sáng trong bộ quân phục Nhảy dù vải kaki vàng thẳng cứng nếp hồ với đầy đủ lon lá, huy chương và sợi giây Bảo quốc rực rỡ, tôi thoáng ngạc nhiên vì lần gặp gỡ trước Nam đã nói với tôi rằng vừa giải ngũ. Tôi hỏi đùa:
― Bạn tôi quân cách rềnh ràng đi lãnh thưởng ?
Tôi có ý trêu Nam về số tiền một triệu ông Chu Tử đề nghị báo Sóng Thần tặng Nam về tác phẩm " Tù Binh Và Hoà Bình " để bỉ thử giải Văn học Nghệ thuật bần tiện của Thiệu. Nam cười lớn:
― Cái giải thưởng của bố già cậu sài mẹ nó hết rồi, có cụ Vũ Bằng biết đấy !
Rồi Nam tự giải thích khi thấy tôi hóm hỉnh nhìn Nam với bộ quân phục:
― Cậu Nam giải ngũ nhưng cậu Nam vẫn là lính Nhảy dù hợp lệ ! Nhưng mà giải ngũ rồi chán quá mi ơi. Buồn cóc biết làm gì và thèm mặc lại quân phục?
Xong Nam dịu giọng nói như than thở:
― Có lẽ tao lại phải làm đơn xin tái ngũ. Giải ngũ mà tao có cảm tưởng xấu hổ như một thằng đào ngũ !
Tôi có chuyện cần, vội gặp ông Chu Tử nên không nán lại góp chuyện với ba người và tìm hiểu chuyện Nam giải ngũ là đùa hay thật. Tôi chào và leo lên gác. Lúc trở xuống thì Nam đã không còn đấy nữa, và đó là lần cuối cùng tôi gặp Phan Nhật Nam, cho đến ngày di tản và cho đến bây giờ là sáu năm chia biệt.
Gặp Nguyên Vũ ở Fort Chaffee, gặp Lê Văn Mễ và một số bạn trong và ngoài binh chủng Nhẩy dù thân biết Phan Nhật Nam, tôi đều hỏi thăm và rõ chắc Nam cùng vợ con kẹt lại. Tôi rất buồn và lo lắng cho Nam cùng các bạn văn không di tản được. Nhưng tôi nghĩ nhớ và lo lắng cho số phận Phan Nhật Nam nhiều nhất. Là bởi, lần ra Hà Nội quan sát vụ trao trả tù binh, Nam đã ngông nghênh ôm theo cả một lô sách " Mùa Hè Đỏ Lửa " ký tặng các văn nghệ sĩ miền Bắc. Đó là tác phẩm để đời của nhà văn chiến trường số Một của miền Nam viết về cuộc chiến khốc liệt mùa hè 72, đầy rẫy lời thống mạ chủ nghĩa và tập đoàn lãnh đạo miền Bắc, phơi bầy thực chất phi lý bi thảm của cuộc nội chiến và toàn vẹn bộ mặt bất lương đốn mạt của " anh Hồ cộng sản " - thứ " nhân tài chết tiệt của dân tộc " - mà Nam đem đến tận nơi, dí vào mắt chúng. Tôi thật phục Nam. Tôi vẫn muốn có dịp hỏi thăm Nam về chuyến theo phái đoàn Ủy ban Liên hiệp Quân sự ra Hà nội và khi trở về, Nam đã viết cuốn " Tù Binh và Hoà Bình mà tôi chưa được đọc ".
Đối với tôi, Nam đã chiếm giữ một cảm tình đặc biệt. Tôi yêu cái văn chương bốc lửa của Nam, thích cái con người tàng tàng ngạo nghễ của Nam. Kỷ niệm tôi có với Phan Nhật Nam không nhiều nhưng đủ để tôi và Nam coi nhau như bạn thiết. Tôi đọc tác phẩm đầu tay của Nam, cuốn " Dấu Binh Lửa " nhân một kỳ nghỉ dưỡng sức trên Đà Lạt và đã say mê cuốn hút, cảm phục văn tài, vô cùng thú vị với những dòng thể hiện sống động mạnh mẽ, hiên ngang, đậm sũng tình người, chứa chan lòng yêu quê hương đất nước ... Phan Nhật Nam, ngôi sao mới hiện nhưng đã chói lọi trong giới quân nhân cầm bút. Nam hiện thực đời mình, phổ diễn tâm tình, cảm nghĩ của một người vững chắc lập trường quốc gia nhân bản, hiện thực tấn thảm kịch đầy bi phẫn đau thương của cả một thế hệ trong đó có Nam vừa thủ diễn vừa là chứng giả. Nam đã nói lên được tiếng lòng thầm kín cùng khát vọng chung của những người cầm súng. Nam là gạch nối giữa những người lính chiến và dân thành thị. Nhờ có tác phẩm của Phan Nhật Nam, dân thành phố ngụp lặn trong bình yên hưởng thụ mới giật mình biết đến và biết rõ mức độ thảm khốc của chiến tranh cùng sự hy sinh quá lớn của người lính. Điều rõ rệt nhất là Nam đã nói lên được cho nhân loại hiểu về cái chính nghĩa của cuộc đấu tranh để tự tồn. Rằng những người lính Việt Nam Cộng Hoà cầm súng và chiến đấu không phải vì bản năng hiếu sát hay yêu thích chiến tranh, mà là chiến đấu để tồn tại. Cho chủ nghĩa Quốc gia tồn tại và nền Tự do Dân chủ của miền Nam tồn tại.
Trong các thiên bút ký chiến trường, Phan Nhật Nam đã cực tả được độ cao cùng tột của chiến tranh tàn khốc, hiện thực được cả một trời đất mênh mang thống hận trong lòng người dân Việt trước cảnh tương tàn đẫm máu, đã vẽ ra một thiện thân sừng sững của người lính Nhảy dù chiến đấu hào hùng và chết rất hào hùng. Những đời trai trẻ quên bỏ hạnh phúc, tình yêu, tương lai, sự nghiệp cùng những vui riêng để bước vào chốn cùng hung cực hiểm, đầy rẫy gian lao khổ nhọc và bị vô ơn bạc đãi nhưng vẫn lầm lì chịu đựng và dũng cảm xông pha trận mạc, trực diện kẻ thù, đổ mồ hôi, xương máu lao thẳng vào đạn lửa, phóng mình vào nỗi chết cho giải đất miền Nam được tồn tại và người dân miền Nam được sống còn.
Phan Nhật Nam là một nhà văn có chân tài. Ngôn ngữ xử dụng trong văn chương Phan Nhật Nam là thứ ngôn ngữ hừng hực như lửa, mạnh mẽ như gió bão, vững chắc như thành đồng, tha thiết, nồng nàn, chứa chan nhân tính ...
Tôi gặp Nam lần đầu do Thế Phong đưa lại chơi nhà Nam ở đường Trần Nhật Duật, Tân Định. Nhưng biết nhiều về Nam thì qua bạn cùng khoá với Nam là Võ Ý. Tôi nhớ lần đó Nam nói khoái tôi vì bài bút ký " Dakseang Gối Mỏi Lưng Đồi " tôi viết trên tuần báo Đời và ký tặng tôi cuốn " Mùa Hè Đỏ Lửa " với vỏn vẹn mấy chữ Tặng ông, bạn tôi làm Thế Phong cười ngất :
― Nó là nhà văn đang lên, sách bán có tiền nên hà tiện chữ nghĩa cho bạn bè !
Sau này tôi mới nói cho Nam biết cái thằng bay chiếc C&C cho tướng Hậu nửa đêm vào Tân Khai trong trận bão Mannie, giữa mưa đạn phòng không Việt cộng mà Nam nằm dưới đất nhìn thấy khi theo chiến đoàn trung tá Cần vào giải vây An Lộc rồi viết trong " Mùa Hè Đỏ Lửa " chính là tôi, Nam có vẻ thống khoái vì sự ngẫu nhiên ấy, cười khà khà và phán một câu:
― Thấy chiếc máy bay, tao thương quá. Những thằng Không quân chân hổng giữa trời, chết mà không biết thằng khốn nạn nào " chơi " mình thì " lỗ " quá! Thực tình tao " rét " mày ạ, chết dưới đất vững hơn ... Ai ngờ lại là mày bay cho ông Hậu ! Hà hà ! ... Mày rơi đêm đó là tao lại có tí đề tài " viết cho một người nằm xuống " !
Trong những ngày bôn ba chiến trận, thỉnh thoảng tôi có gặp Nam vác máy hình theo quân Dù đi làm phóng sự. Nhưng thường là những lúc tôi về Saigon cùng Nam và một vài bạn văn nghệ ghé La Pagode bù khú. Đó là những lần tôi có dịp thán phục khoa đấu láo của Nam. Cái giọng oang oang nửa Huế, nửa Quảng Nam, pha tí Bắc kỳ, một khi mở máy là nói liên miên đủ thứ đề tài ... Có thể nói khoa tán phét của Nam vô địch ! Nam có khả năng nói thao thao hàng giờ không ngưng nghỉ và thật lôi cuốn, có duyên, ba hoa châm biếm bất cần thiên hạ.
Tôi nhớ nhất một lần đang đấu vung vít với chúng tôi, Nam bất chợt để ý thấy một cô gái ngồi uống nước một mình ở bàn bên cạnh. Cô gái mặc đồ đầm, có nét đẹp kiêu kỳ sang cả của một thứ kiều nữ con nhà giàu học trường đầm, châm hút điếu Salem. Thế là Nam kêu lên:
Tại hạ xin có ý kiến: Người đẹp mà hút Salem là không đúng sách vở !
Thế là Nam bỏ mặc câu chuyện dở dang với chúng tôi, kéo ghế qua bàn cô gái. Tôi không nhớ Nam hút thuốc gì nhưng cũng là một thứ thuốc lá đầu lọc và Nam bô bô quảng cáo cho hiệu thuốc của mình với những lời dẫn chứng theo sách vở, theo kinh nghiệm, theo thống kê, theo lời " Khổng Tử xổm tọa chi viết " , theo lời khuyên của bác sĩ này, nhà sản xuất nọ và Nam đem luôn chính trị, kinh tế, quân sự và cả truyện chưởng Kim Dung vào bài hát nói! Nam nói một cách trơn tru hữu lý. Trong cái hoạt kê quấy nhộn ấy, tôi thấy khẩu tài của Nam vượt xa miệng lưỡi dẻo kẹo của những anh giang hồ bán thuốc Sơn Đông. Những tay mãi võ láu cá vặt đó, hay những lời tuyên truyền của mấy cậu mợ cộng sản nhà quê không thể duyên dáng bay bướm trí thức như Nam được. Cô gái cuối cùng phải bỏ nét mặt lạnh lùng kênh kiệu, bật cười phì và nhận điếu thuốc Nam mời. Bài tán láo của Nam dài gần nửa tiếng đồng hồ và hai tay ăn tục nói phét có hạng trong mấy chúng tôi hôm đó là Thế Phong và Dương Hùng Cường cũng phải chào thua Nam.
Đó là một vài trong những kỷ niệm tôi có với Phan Nhật Nam. Tôi yêu và phục Nam không chỉ có văn tài và và khoa đấu hót. Nam thông minh, hiếu động, tính tình thẳng trực, ngang tàng khí phách, đôi khi hành động như một thứ " cao bồi văn nghệ " nhưng không nhố nhăng lố bịch. Cái ngông nghênh tự phụ của Nam, đối với tôi không có gì quá đáng. Tâm hồn Nam sâu sắc, nhiều tình cảm và rất tốt với bạn bè. Nam bị kẹt lại vì ngày 30-4 dắt vợ con vào nhà tướng Kỳ nhưng không thấy ông tướng râu kẽm, bèn chạy qua DAO. Trước cảnh chen lấn cùng ám ảnh một đảo Guam không hơn gì các trại đón dân tị nạn miền Trung, Nam chán nản đưa vợ con trở về. Cộng sản tiếp thu Saigon, Nam như con chuột mắc nạn trong bẫy xập, cuống cuồng sợ hãi vì tin cộng sản sẽ lùng giết. Phan Nhật Nam, đại úy Nhảy Dù, nhà văn chống cộng lẫy lừng tên tuổi, thành viên đối nghịch to mồm nhất trong Ủy ban Liên hợp Quân sự? phải là thành phần Ngụy số một " có nợ máu với nhân dân ! " Nam hơn ai hết, hiểu rõ bản chất đê tiện của cộng sản, biết rõ những gì đang chờ đợi mình và Nam tìm chỗ ẩn thân. Nam bỏ Saigon về Long Khánh làm rẫy trước khi cộng sản có chương trình lùa dân đi kinh tế mới. Nhưng Nam biết trước sau gì cũng không thể lẩn trốn được cái mạng lưới công an tinh vi cộng sản một khi chúng cố tình lùng kiếm và vì Phan Nhật Nam quá nổi. Ngày 22-6-75, Nam ra trình diện học tập và bị giam tại trại Long Giao. Chính tại đây, Nam đã viết trong bản tự khai, " Trong đời tôi, tôi chỉ có một điều ân hận là có ông bố hành nghề cộng sản ! "
Bố Nam theo kháng chiến từ năm Nam 7 tuổi, hiện là một nhân vật cao cấp trong Chính trị bộ Hà nội, tên Phan Văn Trình. Mẹ Nam là bà Ngô Thị Phương Dung, chết năm Nam 18, học trường Phan Chu Trinh, Đà nẵng. Nam sinh ngày 10-9-43 tại Huế nhưng lớn lên tại Quảng nam. Sinh viên Sĩ quan Võ bị Quốc gia Đà Lạt khoá 18, ra trường năm 1963, tình nguyện đi binh chủng Nhảy dù. Năm 1968 ra khỏi binh chủng và thời gian sau Hiệp định Paris, Phan Nhật Nam là thành viên VNCH trong Ủy ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên cho đến ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản.
Những năm tại ngũ, Phan Nhật Nam từng tham dự hầu hết các chiến trường sôi bỏng ở quốc nội (1963-1973). Từ những địa danh nổi tiếng như Khe Sanh, Cồn Tiên, đến những làng nhỏ ở Cửa Việt, Diễm Hà Trung, Diễm Hà Nam, cho đến nững hóc hiểm hoang vu ở cuối thung lũng sông Kim Sơn; từ tây vực quận Hoài Ân, Bình Định, tới làng Mã Tây, vv? nơi nào Nam cũng tới và đã tham chiến, chỉ trừ chiến dịch Hạ Lào. Quãng đời binh nghiệp bôn ba đã cho Phan Nhật Nam quá nhiều chất liệu phong phú để dựng thành tác phẩm. Khởi nghiệp viết văn từ 1969 và đã nổi tiếng với tác phẩm đầu tay " Dấu Binh Lửa " .Sau này văn tài Phan Nhật Nam chói sáng hơn với tập bút ký chiến trường " Mùa Hè Đỏ Lửa " nói đến cuộc chiến khốc liệt cùng tinh thần chiến đấu hào hùng tuyệt vời của người lính Việt Nam Cộng Hoà trong những trận đánh rúng động thế giới ở Quảng Trị, An Lộc ... vào mùa hè binh biến 1972.
Ngoài những bài phóng sự, những truyện ngắn đăng rải rác trên các nhật báo, tuần báo, đặc san Saigon, Phan Nhật Nam chỉ trong 5 năm từ ngày khởi nghiệp, đã có một số lượng tác phẩm đáng kể xuất bản và tạo được tên tuổi, chỗ đứng riêng biệt trong làng văn : Dấu Binh Lửa ( Đại Ngã, 1969, Hiện Đại tái bản 1974 ) - Dọc Đường Số Một ( Đại Ngã, 1970 ) - Mùa Hè Đỏ Lửa ( Sáng Tạo, 1972, tái bản 2 lần, 1973, 1974 ) - Ải Trần Gian ( Đại Ngã, 1970 ) - Dựa Lưng Nỗi Chết ( Hiện Đại, 1973 ) - Tù Binh và Hoà Bình ( Hiện Đại, 1974 ).
Những tác phẩm Phan Nhật Nam dự định xuất bản nhưng không thực hiện được vì biến cố 30-4-75 gồm: " Những Ngày Hè Cuối Cùng - Đá Nát Vàng Phai - và Mặt Trận Quảng Trị " ( còn có tên Trên Giòng Đá Đổ Mồ Hôi ).
Chưa hết, Phan Nhật Nam hiện đang ở trong trại tù cộng sản nhưng vẫn còn cầm bút. Hơn cả Phùng Quán với " Giấy bút tôi ai cướp giật đi, tôi vẫn dùng dao viết văn lên đá ... " Phùng Quán khi viết những câu thơ phẫn hận ấy, trên vai vẫn còn mang quân hàm của chế độ, không ở trong tù, vẫn còn phương tiện để mà viết và còn có được cơ hội phổ biến là tờ Nhân Văn Giai Phẩm.
Phan Nhật Nam bị đưa ra Bắc từ 22-6-76, qua những trại tù kinh khiếp nằm sâu trong rừng núi thượng du Bắc Việt nước độc giết người: Sơn La, Lai Châu, Tuyên Quang, Hoàng Liên Sơn và cuối cùng hiện ở trại tù số 5 Thanh Hoá thuộc hệ thống Trại Đầm Đùn, hay trại tù Lý Bá Sơ khủng khiếp bậc nhất trong hệ thống tù cộng sản. Nhưng Phan Nhật Nam vẫn viết. Viết trong những điều kiện trăm phần khốn cực hơn Phùng Quán. Viết lén lút phập phồng dưới nắng lửa, mưa dầm, trong tối tăm đói lạnh, vây quanh bởi những cặp mắt nham hiểm rình mò cú vọ của một bầy lang sói. Suốt năm năm tù tội đọa đầy, Nam đã dựng khung hai tác phẩm trường thiên " Đá Nát Vàng Phai " và " Luyện Ngục Rực Lửa " cùng những trang nhật ký gửi vợ con yêu dấu. Hai tập dàn bài Nam dấu cất đã bị khám phá và tịch thu. Nam bị chúng đánh đập, cùm xiềng, giam vào hầm đá biệt lập tối tăm lạnh buốt, chịu đựng đói khát cực khổ suốt ba mươi nhăm ngày đêm thảm nhục và cuối cùng Nam đã sống còn như một nhiệm mầu. Nam còn hơi thở nghĩa là còn nghị lực, còn vững vàng ý chí để phấn đấu, để tin yêu và hy vọng, không quên mình là một Hướng đạo sinh " Vui Vẻ Trong Mọi Khó Khăn ", không quên mình là lính Nhảy Dù " Cố Gắng " , không quên mình là một chiến sĩ có thêm nặng trên vai thiên chức Nhà Văn! Nam thể hiện nỗi thảm thương khổ nạn của kiếp tù đầy nhục nhã của chính mình và chung của hàng trăm ngàn bạn bè chiến hữu đồng cảnh ngộ vào những trang nhật ký đầm đìa máu lệ gửi cho vợ con, như một tiếng kêu thương bi thiết gửi cho người thế giới bên ngoài.
Những trang nhật ký này, coi như tác phẩm mới nhất của nhà văn Phan Nhật Nam viết trong lao tù cộng sản và tôi đang có trong tay.
Do một người bạn cùng khoá với tôi và là bạn chung của tôi và Nam gửi cho, khoảng trung tuần tháng 10-80, với lời nhắn " Nam nhờ tôi trao cho bạn, để làm cách nào vận động cứu Nam, nếu không nó chết." Bạn tôi là Đại úy hoa tiêu Không lực, rất thân với Phan Nhật Nam, ra trình diện cùng ngày, chung chuyến tầu ra Bắc và đôi ba lần cách khoảng bị giam chung với Nam cùng một trại tù. May mắn cho Nam là Chử Quân Anh trước ngày được cộng sản phóng thích nhờ bao công lao tốn phí vận động của người vợ có quốc tịch Pháp, đã vì bạn, mưu mô lén dấu giúp Nam đem ra được tập nhật ký và mang qua Pháp an toàn. Quân Anh cho tôi biết Nam bị liệt vào thành phần tù chính trị ngoan cố và chúng đã dành sẵn cho Nam bản án tử hình. Nếu không, nhẹ nhất cũng khổ sai chung thân vì Phan Nhật Nam cương ngạnh vô phương cải tạo. Quân Anh còn cho tôi biết thêm rằng tình trạng sức khoẻ của Nam hiện tại rất là thê thảm. Cái thân hình vốn gầy gò mảnh khảnh của Nam " bây giờ tiều tụy suy nhược, ông không thể nhận ra đâu ..." Lao động quá sức và ăn đói, bệnh tật không thuốc men đã khiến Nam chân run không đứng vững. Đầu váng, mắt hoa, lúc nào cũng nghe tiếng ve u u trong óc. Phổi hư, răng mục nguyên hàm, tóc rụng từng mảng vì nhiều thứ bệnh tù: bệnh thiếu dinh dưỡng, bệnh ghẻ ngứa, bệnh tê thấp, bệnh đau dạ dày, bệnh trĩ nội xuất huyết hậu môn ngày hàng lít máu ... Thế mà vẫn phải khổ dịch lao tác mỗi ngày. Phá rừng, xẻ núi, còng lưng đập đá, oằn người bấu những ngón chân bật máu đẩy từng xe đá hay kéo vần khối gỗ nặng trên cả sức người khoẻ mạnh vượt hai cây số đường đèo trơn trượt ... Thế mà vẫn phải chỉ một buổi sáng cúi xuống, nhấc lên, khuân 670 tảng bùn nước nặng trung bình 10 kilô hay 6 tấn 7 cho một thân tù ốm yếu? Thế mà trời đông hàn vẫn phải trần truồng ngâm mình dưới dòng sông giá buốt đẩy từng bè củi, lội ngược con nước về trại cách xa 4 giờ đường bộ trong trong cái lạnh cắt da của 7 độ centigrade !
Tôi mềm nhũn cả lòng. Những dòng chữ nhỏ kín đầy hai mặt những trang giấy xé ra từ quyển vở học trò tồi tàn phẩm chất sản xuất từ cái gọi là xã hội chủ nghĩa miền Bắc đúng là nét chữ cứng cỏi thân quen của Phan Nhật Nam. Cái văn chương ngôn ngữ kết đọng thành khối đau thương thống hận vô cùng đó đúng là thứ văn chương ngôn ngữ chỉ một Phan Nhật Nam có được.
Định mệnh nào đã đưa Nam vào con đường khổ nạn đắng cay nhường ấy ? Định mệnh nào cay nghiệt đã khiến cha con Nam đối đầu chủ nghĩa, để rồi ngày trùng phùng trong nghịch cảnh, Nam chỉ biết u oán nhìn cha thinh lặng qua chấn song tù, nước mắt khổ đau tủi hận chan chứa tuôn rơi ?... Ba mươi năm đi làm cách mạng để đổi lấy một ngày " chiến thắng " trở về thấy cảnh gia đình ly tán. Để thấy đứa con trai tù tội. Để chứng kiến cái chết u uất của đứa con gái. Em gái Nam có chồng học tập, tuyệt vọng hủy đời xuân sắc trước cặp mắt ngỡ ngàng đau đớn của người cha cộng sản .
Còn Nam, Phan Nhật Nam đã như một anh hùng ngã ngựa, hiên ngang bước vào lò luyện ngục với nụ cười khinh mạn. Hiên ngang nhận chịu những ngón đòn thù đê tiện và cực cùng độc ác. Để chứng tỏ đởm lược của một chiến sĩ Nhảy dù, chứng tỏ hào khí của người lính quốc gia, chứng tỏ phong thái bất khuất của một nhà văn hữu hạng miền Nam, Nam đã chối bỏ những lời dụ hoặc để làm tờ khai tự thú theo ý muốn cộng sản, chối bỏ đặc ân từ ảnh hưởng chức vụ người cha và bởi thế, vợ Nam mới bị ngăn cấm liên lạc với chồng. Những lá thư gửi vào trại tù, vợ Nam phải dùng tên khác, gửi cho người khác nhờ chuyển đến Nam lén lút. Và bởi thế, bố Nam không thể làm gì cưỡng chống mệnh lệnh đảng can thiệp cho Nam. Trong suốt 5 năm tù tội, Nam chỉ được vợ con thăm nuôi một lần duy nhất, nhưng không phải là một cuộc thăm tù chính thức. Vợ Nam phải chạy vàng hối lộ cho bọn công an bộ đội để có giấy tờ mạo danh, dắt hai con thơ lặn lội đường trường ra Bắc thăm chồng.
Đó là lần gặp gỡ ngắn ngủi, cực cùng chua xót và cảm động vào tháng 5-79 mà Nam đã viết trong trang đầu nhật ký. Những dòng máu lệ đầm đìa thương tủi ấy, tôi đọc mà rúng động. Tôi nhìn thấy cảnh tủi mừng đau đớn của cuộc trùng phùng thực hư ảo mộng giữa cha con chồng vợ trên bờ đê lộng gió. Tôi thấy những giọt nước mắt thảm sầu thánh thót rơi trên những gương mặt khổ đau thống hận. Và nghe, và cảm nhận được tất cả nỗi u oán uất nghẹn không thốt thành lời trên những đôi môi khô héo, trong những tia nhìn chĩu nặng tủi hờn. Thật tội thương Nam. Thật hết sức đáng yêu và vô vàn cảm phục. Quân Anh nói với tôi nhiều chuyện về Nam và khẳng định một điều rằng trong tù Nam sống không hèn. Tôi biết Phan Nhật Nam vững vàng bản ngã, đầy ắp tình người, tình yêu thương đồng loại. Cao cả biết bao nhiêu khi nghe Nam nói đến cái chết của đứa bé gái con " em Lợi " . Nói đến những người tù nữ, đến những đứa trẻ tuổi măng thơ sinh ra và lớn lên trong đói khổ trại tù, lây lất, bơ vơ ... " Những đứa bé da nhăn như người già vì thiếu dinh dưỡng " !
Đọc những dòng diễn tả trong nhật ký, tôi nhận ra Nam vẫn nguyên tròn bản chất. Một Phan Nhật Nam vui tếu tàng tàng. Một Phan Nhật Nam người hùng Mũ đỏ. Một Phan Nhật Nam trọng danh dự và nhất ngôn. Cái tinh thần Hướng đạo Nam hằng ôm giữ, cái châm ngôn " Vui Vẻ " chỉ nam cho đời sống, Nam đã tận tụy thi hành ngay cả trong những giây phút Nam đang " Dựa Lưng Nỗi Chết " ! Tôi đã mỉm cười trong nước mắt ngậm ngùi ... Thân xác Nam rũ liệt nhưng tinh thần Nam còn vững thẳng với bao gắng gượng, dưỡng nuôi nghị lực để sống còn cho hy vọng mãnh liệt có một ngày về mà Nam gọi đó là sự " Phục Sinh Mầu Nhiệm ", bằng vào niềm tin nơi Thiên chúa, bằng vào tình yêu vợ thương con quá mạnh. Tôi bồi hồi cảm động khi thấy Nam viết say sưa về cái mộng ra tù cầm bút viết văn trở lại, kiêu hãnh, nồng nàn khoe với vợ con về tập bản thảo của hai cuốn trường thiên viết trong tù ngục? Lại còn cái ước ao có được chiếc khẩu cầm để thổi te te trước giờ lên võng mỗi đêm. Lại còn đỏm đáng chuốt trau nhân dáng, dù cho tàn tạ cũng là nét tàn tạ rất " hùng " của một Sĩ quan Cộng Hoà xuất thân Võ Bị, hỏi xin cái nón rộng vành che nắng lửa trời hè lao động nhưng nhất định không phải là thứ nón tai bèo của mấy chú Vi-Xi ! ... Thật tội thương Nam, dù trong khổ nạn vẫn cố đem vui sống cho đời, dù trong đầy đọa cũng không đánh rơi nhân phẩm và chịu đồng hoá với bầy ác thú.
Tháng 3-80, vợ con Nam đã vượt biên bằng đường bộ tới Thái Lan và đến nay khi tôi viết những dòng chữ này (tháng 2-81), ba mẹ con vẫn long đong cơ cực sống trong trại tị nạn Sikew. Phải hiểu một khi quyết định rời bỏ miền đất quê hương chẳng biết dung người ấy, chị Nam đau đớn thế nào và Nam ngẩn ngơ rúng động thế nào khi biết vợ con mình từ nay đã xa cách nghìn trùng, để lại bên trời khổ nhục mình Nam với nỗi cô đơn trầm thống. Phải mất một thời gian dò tìm liên lạc, tôi mới có địa chỉ viết thư xin ý kiến chị Phan Nhật Nam về việc phổ biến tập nhật ký. Bởi vì dầu sao những trang nhật ký này Nam viết riêng cho vợ con và là báu vật thiêng liêng chỉ riêng vợ con Nam có quyền tư hữu. Hơn thế nữa, việc công bố nhật ký làm sao tôi dám tự chuyên vì ảnh hưởng rất lớn tới nỗi an nguy của Nam. Tôi nghĩ tới trường hợp nhà văn Doãn Quốc Sĩ cùng những lời hy vọng của Nam đã viết và ủy thác Chử Quân Anh trao tập nhật ký cho tôi, việc trước tiên tôi có thể làm được là liên lạc với anh Trần Tam Tiệp, tổng thư ký Văn Bút Việt nam Hải ngoại nhờ vận động với Văn Bút Quốc Tế cùng các cơ quan quyền lực quốc tế can thiệp cho Nam được tự do.
Anh Trần Tam Tiệp đã sốt sắng lo liệu. Phan Nhật Nam có tên trong danh sách tù nhân văn nghệ sĩ được hội Văn Bút Quốc tế trực tiếp can thiệp. Hơn thế nữa, Phan Nhật Nam còn được ghi tên dự một giải văn chương quốc tế với tác phẩm là tập nhật ký này. Ủy ban Ân Xá Quốc Tế cũng lấy tên và địa chỉ trại tù để gửi quà tặng cho Nam. Tôi báo tin và chị Nam viết trả lời, " Nếu anh thấy việc công bố nhật ký của Nam nhất thiết phải làm thì anh cứ tùy tiện. Cũng như anh, tôi hơi lo không biết việc ấy có lợi hay hại cho Nam song đành vậy. Tôi rất mừng khi biết Pen Club gửi quà tặng cho Nam. Những món quà của Pen Club có một giá trị tinh thần đáng kể. Nam sẽ phấn khởi và hy vọng hơn khi biết có sự chú ý của bên ngoài đối với mình. Nghị lực cũng giống như vốn liếng, để không ăn dần cũng suy mòn hao hụt đi, rất cần sự tiếp sức ... "
Tôi chỉ chụp một trang nhật ký của Nam gửi cho chị đọc. Chị đau đớn viết cho tôi, " Những ngày trong trại tị nạn này cũng là những ngày tôi cảm thấy gần gũi Nam nhất trong suốt mấy năm nay. Có cái hạn chế của thực phẩm để cảm thông một phần nào cái đói. Có se da vì chăn Hồng Thập Tự phát quá ngắn không chùm kín đầu để cảm được cái lạnh của người đốn cây xẻ đá giữa buốt giá của mùa đông miền Bắc ... Tôi biết Nam là người yêu đời sống rất mãnh liệt, thế mà Nam đã ai oán kêu lên Thà rằng ta chết cho xong! thì đủ biết Nam bi phẫn tuyệt vọng đến nhường nào. Lòng tôi tan nát ..."
Tôi không thể chờ đợi lâu hơn để hoàn tất việc chuyển dịch tập nhật ký sang Anh ngữ phổ biến đồng loạt cùng bản văn Việt ngữ. Công việc này quả thực quá khả năng tôi vì văn chương ngôn ngữ Phan Nhật Nam vô cùng khó dịch, dù tôi có bỏ ra hàng ngàn giờ và dốc toàn vốn liếng cũng không thể chuyển ra ngoại ngữ trung thực và trọn vẹn mức độ bi thương thảm thiết chứa trong từng lời, từng chữ mà Nam đã viết bằng máu lệ đời mình. Tôi không thể để lâu hơn. Vì Nam đang quằn quại mỏi mòn ngóng đợi từng ngày, từng giờ. Vì những điều Quân Anh kể về tình trạng sức khoẻ của Nam và lời nhắn " làm thế nào vận động cứu Nam, không nó chết " ám ảnh tôi lo lắng bồn chồn.
Tôi xin gửi đến các báo chí Việt ngữ trên toàn thế giới, kính nhờ quý vị phổ biến rộng rãi trong mọi giới đồng bào tị nạn. Xin gửi đến các hội đoàn quốc gia tranh đấu chống cộng sản và tranh đấu cho nhân quyền. Gửi chung những bằng hữu thân biết Phan Nhật Nam, các nhà văn, nhà báo, các chiến hữu của Nam? với lời khẩn thiết kính xin quý vị tiếp tay phổ biến tài liệu này và vận dụng mọi phương tiện tranh đấu buộc cộng sản trả tự do cho nhà văn Phan Nhật Nam. Tiếng kêu thương của Phan Nhật Nam cũng là tiếng kêu thương đứt ruột của hàng trăm ngàn người Việt Nam của chế độ Tự do đang bị cộng sản giết dần mòn trong các trại tù cải tạo.
Tập nhật ký này nếu được các vị dịch giả thừa khả năng ngoại ngữ dịch ra Anh văn và Pháp văn, phổ biến cho nhân loại toàn cầu biết đến cái thảm trạng kinh hoàng của hệ thống lao tù cộng sản, phải là một công trình văn hoá lớn lao, không riêng gì Phan Nhật Nam cùng vợ con mang ơn quý vị, mà tất cả những người chống cộng trên thế giới đều biết ơn.
Đào Vũ Anh Hùng
Post by khieulong » Tue Jun 25, 2013 5:26 pm

Đốt Charlie
Phan Nhật Nam
Bây giờ là buổi chiều. Buổi chiều với nắng vàng và gió lộng. Không còn tiếng nổ trong không gian, ba mỏm núi bốc những sợi khói nhỏ, mờ mờ hơi nóng. Nóng không phải hơi nắng mặt trời nhưng do âm ỉ của thuốc súng chưa kịp tan, còn lẫn khuất nơi cây cỏ, đất cát.
- Thiếu tá... Hải gọi nhỏ Mễ. Lúc riêng rẽ, ít khi hai người gọi nhau bằng cấp bậc, nhưng bây giờ, tình hình đã khác, trách nhiệm và bổn phận quá đổi nặng nề, thêm xúc động trong lòng qua cái chết của người chỉ huy. Hải nhắc nhở Mễ,
Thiếu tá, tổng kết là mình chết 20, 40 bị thương cần di tản,
Mễ gật đầu, đưa mắt nhìn hỏi Liệu...
- Đúng vậy! Liệu đáp nhỏ. Anh toubib hết đồ nghề, nhìn xuống xác anh Năm, như một cách lẫn tránh.
- Dạ, có ông Hùng muốn nói chuyện với thiếu tá. người lính truyền tin đưa ống liên hợp cho Mễ.
Tiếng Hùng ở C1, vọng trong máy: Trình Mê Linh (danh hiệu truyền tin của Mễ), ở tôi thì không có gì, nhưng từ sáng tới giờ sao chẳng nghe 008 (Tiểu đoàn trưởng) nói gì với tôi hết... Giọng Hùng mang vẻ trách móv xa vắng, ắt hẳn hắn đã linh cảm được tai nạn xảy ra. Mễ nhìn xuống xác anh Năm, đôi mắt đỏ mệt mỏi chớp chớp, hình như có giọt nước mắt lưng tròng,
- 008 đã bắt tay với ông Phan (Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1 Dù, đã tử trận Hạ Lào, 1971), biết thế thôi, đừng nói cho ai hay...
- Dạ, tôi nghe rõ Mê Linh. Hùng không còn hơi sức để hỏi gì thêm.
Súng lại nổ dưới Charlie. “Cất” anh Năm lại, đừng cho lính biết. Tất cả ra giao thông hào. Mễ ra lệnh ngắn. Lời nói đanh cứng, dứt khoát. Trong ráng chiều, những người lính ở C1 và C 2 chăm chú theo dỏi trận đánh nơi cao độ C.
Bắt đầu, cối và sơn pháo từ những cao độ phía Tây bắn từng nhịp bốn trái một vào căn cứ, xong bộ binh sư đoàn Điện Biên từ hai hướng Tây, Tây-Nam xếp hàng như đi điễn hành tiến vào...
- Đúng là tụi nó điên rồi, không điều động, ẩn núp gì cả... điện biên cái con c...!! Lính ở C1 và C2 dồng đứng dậy khỏi giao thông hào chơi trò chơi mới,
- Mầy bắn vào cái hố có bốn thằng núp dưới kia, nếu trật thì để tao. Hai người lính đại đội 112 thách nhau dùng súng phóng lựu M 79 và hoả tiễn cầm tay M72 từ đồi cao bắn xuống. Trái đạn bay đi khoảng ngắn, đất bụi bay lên... Bốn thân xác phơi trần trụi, vật vã, lăn lóc. Người lính nhỏMiền Bắc đi giải phóng ai đây; trong phút chốc họ đã trở nên thành những bia thịt sống thậm vô ích và chết với gía qua rẻ.
Cuộc tấn công vào cứ điểm C kéo dài năm đợt. Lính Thinh đánh tỉnh táo, chắc chắn. Nhưng bỗng nhiên, Mễ có quyết định: Rút nó về, nhỡ tối nay, nó hết đạn thì sao...
Hải gọi liền máy, bảo Thinh,
- 401 ( Thinh) đây 06 (Hải), anh xếp va-ly lại, nhớ mang theo mấy thằng rách áo, về ở với bố mẹ...
- Vâng, vâng, tôi nghe rõ, tôi cũng có ý định đó vì kẹo gần hết, nhưng sợ 008
và 007 (Tiểu đoàn trưởng và phó) hiểu lầm. Tội nghiệp chưa, đến giờ nầy, Thinh vẫn không biết người anh cả của tiểu đoàn đã đi khuất. Trong âm nói của Thinh vang động mối hân hoan vui sướng” về với bố mẹ”. Thinh đâu tiên đoán được đến lượt mình ở ngày mai?!
Đại đội 111 rút được về C2, năm giờ chiều, trời chỉcòn chút ráng đỏ, gió lạnh... Đỉnh Charlie trống trải cháy ngọn lửa điêu tàn. Và trong hoang vu hấp hối của cỏ cây, hằng trăm người lính Bắc Việt, “những chiến sĩ Điện Biên của sư đoàn Thép, đơn vị vang danh bốn chiều lục địa, những người lính Quân đội Nhân Dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”, tất cả đồng nhào lên Charlie một lượt... Những “bàn chân gang thép mang linh hồn vũ bảo vào Nam giải phóng, đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược”đồng chạy mau hơn, nhanh hơn... Để cùng lăn lộn, giành giựt trên vùng đất vỡ nát, lầy lụa xác người và hơi thuốc đạn. Như một cơn đồng nhập quẩn trí, tất cả đồng vất bỏ vũ khi, dùng tay trần cào, xới, bới, móc... Đám lính đói sưđoàn Thép kiếm thức ăn. Họ tìm gạo sấy, thịt hộp và C Ration. Cuối đường giải phóng, những “chiến sĩ Điện Biên anh hùng” tìm ra “vinh quang đích thực” nơi những hộp thức ăn chế tạo tại Mỹ, giữa đám xác người Miền Nam họ vừa tàn sát.
... Bom!! Bom!! Đốt cháy tụi nó hết!! Mễ nói như thét,
- Có ngay! Hải “khều” ngay ba phi tuần Napalm; toán lính Bắc định tháo chạy, nhưng không kịp nữa. Theo một hướng Tây-Đông chính xác, ba chiếc Skyraider cùng chúi xuống một lúc... Lửa lồng lộng, lửa vàng đỏ trộn khói đen cuộn lên lớp lớp... Trong cỏ cây cháy khét có mùi thịt. Thịt của người và thịt của thức ăn. Lính cộng sản sưđoàn Điện Biên Phủ vinh quangchết trên mục tiêu vừa chiếm lĩõnh - Những hộp thịt thức ăn chế tạo tại Mỹ.
Ngày 13 tháng Tư, Mễ cho đại đội 112 xuống chiếm lại C. Lính của Hùng “móm” vừa từ trên “hột lạc” đổ xuống bị bật lại ngay bởi một hàng rào của cối 60, 82 và sơn pháo 75 ly bắn thẳng từ ngọn đồi phía Tây. Bộ chỉ huy tiểu đoàn không một chút do dự: Cho thằng 2 về, tụi nó hận mình về vụ hôm qua. Lên phía Bắc không được, Mễ thử bung quân ra hướng Đông để tìm bãi đáp. Phải có một bãi đáp bất cứ gia nào, thưlng binh, người chết, xác anh Năm...Tât cả cần phải di tản. Sự hiện diện của những đau đớn nầy làm lòng nặng xuống, cũng có thể gây nên tâm lý phục hận phẫn nộ, nhưng cũng là lần suy sụp lo sợ. Phải di tản gấp số thương binh. Mễ nói với Thinh:
- Ông gắng ra chỗ nầy, (một trãng trống cách C2 khoảng ba trăm thước về hướng Đông), kiếm được LZ( bãi đáp trực thăng), di tản hết thương binh và người chết, tụi còn lại mới yên lòng được. Đừng để cho lính có cảm giác bị bỏ rơi, tinh thần họ giản dị, dễ xúc động. Hơn nữa, mình hết đạn và nước uống. Nhé, ông gắng ra cho được.
- Dạ, thiếu tá để tôi.
Thinh can trường như Triệu Tử Long, dẫn đại đội chỉ trên khoảng bốn mươi người rời căn cứ. Cái trãng trống kia rồi, 50, 40, 30...Gắng chút nữa, mình có nước uống!! Thinh thúc dục người lính. Nhưng không thể được. Bắc quân bắt đầu khai hoả, bốn phía cùng nổ từ các cao điểm chung quanh. Nguy hiểm hơn, địch cắt đứt đường về, quân ở C2 cố ra đón bị chận lại, không thể dùng một thứ vũ khí nào khác ngoài lựu đạn. tiến không được, thối lui không xong, trên đầu bị vây chụp bởi đạn sơn pháo từ dãy cao điểm phiá Nam dội xuống. Thinh ngã chết. Chỉ còn con đừng nầy cho người lính trẻ. Thinh chết giữa trời, trên đồi cháy. Viên đạn cuối cùng vừa bắn ra. Bóng Bắc quân vây kín.Trái lựu đạn còn lại cũng vừa ném... Người sĩ quan tuổi quá hai mươi ngã xuống bởi chục nòng súng xả đạn vào. Chuẩn uý Ba nhào đến ôm xác Thinh, hứng nốt những viên đạn còn lại.
Mễ nổi điên trong giao thông hào, gọimáy liên lạc với đại đội 111,
- Ở đấy còn có ai?
- Có tôi. Khánh, sĩ quan liên lạc tiền sát pháo binh đáp mau.
- Anh coi đại đội, cố dẫn về lại tôi, có thằng 4 ra đón.
- Tôi nghe đích thân rõ. Người sĩ quan pháo binh gom quân làm một mũi dài. ...Đánh!! Để tao đi đầu, lựu đạn mở hết kíp ra. Trung sĩ Lung, người hạ sĩ quan thâm niên nhất dẫn đầu toán quân, xung trận như mũi tên lửa. Đường về có được rồi, bắn bắn che nhau, Lung về chót... Nhưng còn hai ông thầy!! Lung cố chạy ngược trở lại nơi xác của Thinh và Ba. Một loạt đạn vô tình nào đó... Chầm chậm Lung ngã xuống. Ba xác chết chồng lên nhau bất động.
Hai giờ chiều, Bắc quân mở cuộc tấn công mới, cuộc tấn công công khai, nhắm thẳng vào C2, căn cứ chính.
- Tụi nó dứt mình. Được, mầy “điện biên” tao “nhẩy dù”, xem ai hơn ai... Tất cả ai ngồi được, kể cả bị thương, ra hết giao thông hào, thằng nào kêu la khóc lóc, tao bắn chết. Chính tao bắn... tụi mầy để thua, tao bombing vào đây. Chết, chết tất cả!! Mễ gào lên, xong ngất xỉu.
Liệu nói nhỏ, thì thầm sát tai Mễ: Tim ông nó mệt rồi, đừng “gonfler” quá, ông chết luôn, hết người chỉ huy.
Lính sư đoàn Điện Biên thổi kèn xung phong dưới yểm trợ của cối và sơn pháo. Quân ta sau mỗi đợt pháo, đứng khỏi giao thông hào... Vào nữa...vào nữa đi con...Có đứa nào già không mầy? Tao chỉ thấy toàn con nít, đánh tay không tao cũng có thể bóp cổ tụi nó được!! Trước mắt lính nhảy dù, một lớp, hai lớp, những “đứa trẻ” cứ tuần tự đi tới... Những lớp trẻ con chơi trò đánh nhau. Chơi trò chơi ác độc do ép buộc, tuyệt vọng và vô nghĩa lý.
... Không nương tay với nó... Napalm Hải!!
- Có ngay!!
Hai chiếc skyraider xuống thấp như chưa bao giờ thấp hơn, dưới đất thấy được chiếc mũ trắng của anh pilot; hình như anh muốn nhìn quân bạn, anh muốn chào thăm hỏi như sau mỗi lần thả “líp” dù chót, phi cơ thường hạ thấp cách mặt đất khoảng vài mươi thước để “chào bãi”. Ở đây cũng thế, hai chiếc máy bay rà sát xuống coi như gần đụng ngọn cây. Thả bom với cao độ như thế nầy chắc chắn không chệch một thước, bom nổ cháy xém đến tuyến phòng thủ của quân bạn, đám lính Bắc lăn lộn trong bãi lửa, chạy dạt ra xa... Nhưng ô kìa, hai chiếc skyraider không lên được nữa... Lòng can đảm và tình đồng đội đã giết các anh. Các anh đã xuống quá thấp để ném bom thật chính xác, để bung địch ra cho bạn. Các anh đã quên thân mình... Hai cánh đại bàng chúi xuống. Chúi xuống nữa và bốc cháy... Vĩnh biệt các anh! Đám cháy kết thúc trận đánh. thây người cháy đen nằm chật sườn đồi.
...chúng nó đánh, chết như thế để làm gì nhỉ!? Một ngày của hai mươi bốn giờ trên thép đỏ và máu nóng đi qua. Trời tối dần. Đêm xuống... Người lính dựa lưng vào giao thông hào liếm môiâ. Môi anh nóng như miếng vỏ cây bi nung khô... từ sáng đến giờ chưa được uống nước. Anh không còn sức để nghĩ thêm sau chữ “nước”.
Ngày 14 tháng Tư tiếp theo. Tính đến hai giờ chiều, C2 nhận hơn 2000 đạn “delay” và nổ chụp. toàn bộ tiểu đoàn 11 co mình trong giao thông hào dưới cơn mưa pháo không dứt đoạn.
... Nó nổ xa mình. Hải thều thào,
- Ừ phía Tây, ngoài tuyến mình. Liệu tiếp lời, gật đầu đồng ý với Hải. Nhưng thật ra cả hai đều tự dối, pháo không rơi một điểm, một tuyến, pháo chụp toàn thể C2. Pháo tan nát. Pháo mênh mông. Tất cả những lời nói chỉ là cách tự đánh lừa, trấn tỉnh đồng đội và cũng chính mình.
- Hôm nay 14? Liệu hỏi bâng quơ, gợi chuyện trong tiếng nổ ầm ỉ sắc buốt. Mễ Hải không trả lời, đưa mắt dò hỏi. Còn lời nào trong cơn mưa lũ của sắt thép vang độâng nầy ?!
- Hôm nay mười bốn, mai mười lăm, ngày đầy tháng con tôi...
Bốn con mắt lại mở ra. Mễ và Hải không hiểu ý Liệu. Không hể hiểu nổi... Vì Liệu đang nghĩ: Không lẽ ngày đầy tháng con bố lại chết?! “ Chết”, chữ nhỏ ngắn nầy làm tê liệt hết phản ứng. Chết đến từ tiếng “bục” âm âm nơi xa, sâu trong rặng Big Mama... xong nổ “oành” đâu đây... Hình như ngay trên đỉnh đầu, trong lòng nón sắc đang vang động u u. Giữa khoảng cách kinh khiếp nầy chữ “chết“ hiện ra sáng rực như một giải quang báo, tiếp nổ bùng với toàn hể sức công phá. Tiếp tục... tiếp tục... Bốn cây 130 ly nơi xa nã đạn xuống Charlie nhịp nhàng từng ngắt khoảng ngắn.
Năm giờ chiều, trận mưa đại pháo chấm dứt để cối và sơn pháo 75 ly điểm giọt, bắn thẳng vào căn cứ.
- Xong rồi, tụi nó “chơi’ mình lại. Mễ đứng khỏi giao thông hào. Đêm nay là quyết định, mình và nó last fighting... Mễ báo cáo với bộ chỉ huy lữ đoàn,
- Bây giờ tụi nó hết “in coming (pháo kích)”, và bắt đầu “ground attack”. Không phải Mễ sính dùng tiếng Mỹ, bởi thông thường, những danh từ kia phải được nguỵ hoá, nhưng bây giờ tìm đâu ra thì giờ để dò tìm từng từ trong bảng “Ám danh đàm thoại”.
- Nó đánh anh chưa? Viên lữ đoàn trưởng ở căn cứ Võ Định vào máy liên lạc trực tiếp với Mễ.
- Bắc đầu ở hướng cũ, tây và tây-nam, heavy attack,
Tất cả đứng khỏi hầm, đạn súng colt lên nòng, bác sĩ Liệu lúi húi tìm mấy trái lựu đạn... Tôi hết đồ nghề bác sĩ rồi, chơi “đồ chơi” mới vậy, lần sau đi hành quân, tôi mang một khẩu đại liên 60!! Không ai còn sức hưởng ứng câu đùa của Liệu. Mễ nhăn mặt đau đớn, ngày hôm qua bị một quả pétard (thủ pháo, một loại lựu đạn biến chế) nổ quá gần, sức nổ ép cứng xương sườn vào vách hầm, để lại những vết máu bầm lấm chấm...
Trời tối dần, hơi núi đùn lên cao, đậm đặc thêm vì khói súng. Bắc quân đã chiếm được một phần giao thông hào, tuyến phòng thủ của đại đội 114...Trình Mê Linh, nó lấy của của tôi một “khúc ruột”. Cho, đại đội trưởng 114 báo cáo với Mễ,
- Hải, nói với lữ đoàn nó vào tuyến mình rồi,
- Tao...tao mệt... nói không nổi, Liệu giúp hộ...
Bác sĩ Liệu, to người, béo mập, đang khom lưng lẫy súng colt lạch cạch như trong phim cao-bồi, chớp ống liên hợp máy truyền tin,
... Dễ thôi, để tôi... Tụi nó cắm được một phần vỏ lạc của tôi... Liệu ề à với giọng tỉnh táo đùa cợt,
- Ông phải la lên mới được, đùa thế, ngoài ấy tưởng mình giỡn,
- Giỡn làm sao, không đùa như thế, chẳng nhẻ lại khóc lóc mếu máo sao... Ê... chạy đi đâu!! Liệu quay nòng súng colt về phía một anh lính đang nháo nhát chạy vào khu giao thông hào trung tâm,
- Đi ra, ông bác sĩ không bắn mầy thì tao bắn cho mầy biết chết như thế nào? Mễ hét lớn với người lính... “biết chết như thế nào?!”. Mễ cũng buồn cười vì lời nói của mình... Chết rồi, thì biết chó thế nào nữa?! Ầm! Một trái bộc-pha nổ thật gần, bắn Mễ ngã ngữa người xuống. Mễ lồm cồm bò dậy, sờ lưng,
...bác sĩ, chắc tao bị thương nặng!! Mễ thều thào.
Liệu xoa tay lên lưng Mễ, thân áo rách lỗ chổ...Đếch có gì cả, mảnh nhỏ như bụi, vì ông yếu sức nên ngất thế thôi, đây là hậu quả những cú đấm của thằng Hennessy, Couvoisier trước kia!!
...C... giờ nầy mà mầy còn trêu được!
- Stupid! Why you fire forty-five? Anh vố vấn trưởng, thiếu tá Duffy hét vào tai Liệu,
- I have only this... Mẹ mày, giờ nầy còn why với what....What cái cần câu ông ấy,
Một đợt, hai đợt... năm đợt, Bắc quân tràn vào, bị đẩy ra, lại tiếp tục tràn vào, chiếm được một đoạn giao thông hào, xong lấn dần từng đoạn,
- Không xong rồi, nó nhiều “tiền” quá! Hải lẩm bẫm.
Mễ nhìn Liệu, Hải, cố vấn trưởng Duffy. Tôi muốn ở lại! Mễ chắc giọng.
-Nó vào chỗ thằng 4 (đại đội 4), đang qua chỗ thằng 2, mình hết đạn... Dọt, tôi đề nghị. Hải khôn ngoan, dứt khoát.
- Phải, mình “ra” đi, ở đây chịu không nổi, tụi nó đông gấp mấy mình. Liệu tiếp theo. Chữ “ra” ráo hoảnh trống không.
Mễ im lặng, gở nón sắc ra khỏi đầu,
...No hesitation, the best way... Sir? Duffy, Thiếu Tá Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ, người quấn băng loang lổ máu khô, anh đã bị thương ba nơi trên thân, nhưng quyết ở lại với tiểu đoàn. Viên cố vấn, hiểu được phút giây nghiêm trọng đối với Mễ; lần đầu tiên anh gọi người cùng cấp bậc, một thiếu tá người Việt với danh xưng kính trọng, “sir”.
- Đồng ý, cho thằng 2 dẫn đầu, xong đến đại đội chỉ huy và thằng 4 bao chót. Hải, gọi máy qua thằng 3, bảo nó “nhổ neo” ra điểm hẹn nầy. Mễ chỉ một vùng tập trung ở hướng đông-bắc trên bản đồ. Bảo nó đi ngay, mang theo thương binh.
Lần đầu tiên trong đời tác chiến Mễ phải “chạy”, Mậu Thân, 1968, ở Huế, với đại đội chỉ còn ba mươi người, dẫu trùng trùng nguy khốn, Mễ vẫn điều quân phản công chiếm lại cổng thành Thượng Tứ. Nhưng, lần nầy, viễn ảnh toàn bộ tiểu đoàn bị tràn ngập, Mễ không còn cách nào khác hơn.
- Hướng đông-bắc, 800 ly giác, thằng 3 sẽ ra đó với mình. Hải chuyển lệnh cho Hùng “móm”, thành phần xung kích còn lại cuối cùng của đơn vị.
...OK, em nghe, em làm được cái một. Hùng “móm” vẫn ranh mảnh như không có chuyện quan trọng đang xẩy ra.
Đi xuống hoài, vực sâu hun hút, trời tối thẫm và cây rừng đan lưới. Chỉ tiếng lá khẽ động dưới bước chân cùng những thanh âm rên rỉ gầm ghìm trong cổ họng.Đoàn quân lẫn vào bóng đêm như muốn tan thành vật vô hình. Sau lưng họ trên đồi cao, C2 bốc lửa ngọn. Bom đã thả xuống khi người lính cuối cùng đại đội 1 ra khỏi vòng vây. Thương binh nặng và xác “anh Năm”, chuỗi cảnh tượng chập chờn chồng lên trí óc Mễ. Mệt, cảm giác rõ rệt nhất, ba ngày và đêm không ăn, ngủ, chỉ nhấp chút nước lã cầm hơi và cuối cùng, cuộc rút quân trong đêm... Đi nữa đi Hùng, đúng hướng rồi, cứ tiếp tục, phía mặt trời đó, bao giờ đến chỗ trống thì báo tôi. Nhớ liên lạc với thằng 3 ở phía trái, thấy mặt trời thì bảo. Mễ thì thào chuyển lệnh cho Hùng, đại đội trưởng đại đội 1.
Mặt trời chưa thấy, đêm còn dầy. Dầy từng khối lớn mông mênh và đặc cứng. Hình như đã đến đáy một “tan-véc”(khe nhỏ chạy giữa hai chân núi), chân bước lên lớp đất ẩm. Nước! Người lính đặt tay xuống “mặt nước”. Không có, chỉ một lớp lá ẩm mục và đất bùn, khe suối mùa, chưa có nước. Nhưng bàn tay có chút ẩm, người lính lè lưỡi liếm miếng nước vô hình đó .
Qua khỏi “tan-véc”, lên đỉnh đồi, thấy lại sau lưng ngọn lửa ở C2 bập bùng. Bạn bè ta còn đó, sống làm sao được hở trời ?Mễ kiệt lực hỏi,
- Hải, khi chót mình để “anh Năm” ở đâu ?
- Ở giao thông hào, nơi hầm đại liên. Mễ và Hải chỉ nói với nhau được câu ngắn trong đêm. Nguy biến và rình rập vẫn còn rất nhiều. Sao trời chưa sáng nhỉ ?Hùng, gắng đi mau hơn nữa, càng xa tụi nó càng tốt, giữ được súng và thương binh nhẹ như thế này cũng tạm coi như là “đẹp”. Đẹp, hình như Mễ cười chế riễu mình trong bóng tối. Thôi, đừng nghĩ gì nữa, cởi nón sắt cầm tay, bốn ngày đội hoài khối sắt trên đầu, khi cởi ra còn nguyên ảo giác của âm vang tiếng nổ lộng trong lòng chiếc nón kim khí. Mệt quá! Sống rồi! Hùng “móm” kêu một tiếng sảng khoái, bốc máy báo cáo cho Mễ, nhanh như chớp:
- Tôi thấy “nó” rồi phía tay trái tôi.
Mễ nhìn lên tàng cây, trời tím nhạt chưa có ráng nắng, nhưng ngày đã bắt đầu, trãng trống vùng tập trung đã gần đến. Thoát rồi chăng? Mễ tự tin nhưng cũng rất đầy kinh nghiệm: Nó phục mình ở đây nữa thì tan hàng!! Ý nghĩ kinh khiếp như một mũi dao cực bén cắm ngay đỉnh đầu.Mễ không dám nghĩ tiếp...
- Kêu thằng “Đỗ Phủ” đến tao Hải,
- Duffy come here... Viên thiếu tá cố vấn đang đi sau Hải và Liệu nghe kêu, mỉm cười bước lại. Ba lần bị thương, bốn ngày chiến đấu không ăn, ngủ, Duffy vẫn “cứng” như một khối thép, đầu đội mũ đi rừng, khẩu M18 đặt ngang hông, tự tin và bình thản như một ý chí không lay chuyển. Tiên sư thằng cha này “dur” cả hồn lẫn xác, number one! Liệu nói với Hải khi Duffy qua mặt để lên gặp Mễ. Anh chàng hiểu ý, mỉm cười: Hello Doc!!Trong phút chốc sự việc khủng khiếp của bốn ngày căng cứng như vụt tan đi. Nắng cũng vừa đến, nắng đầu tiên của ngày, lòng người lính duỗi ra theo độ ấm của vệt ánh sáng. Sống được rồi mừng biết bao nhiêu!
- Đây nhé Duffy, vùng tập trung của mình, 113 bên trái, phe ta bên phải cùng “move” lên. Mình làm một cái LZ (bãi đáp), xong “mày” gọi “Tây” đem máy bay tới móc mình ra, OK ?
- OK Do !! “Đỗ Phủ” gật đầu lia lịa... Good...very good, you’re the best commander! “Đỗ Phủ” đưa ngón cái lên ca tụng Mễ.
- Tao hay hơn nhiều, cú này bị “kẹt”, mày khen làm tao ngượng. Duffy không biết Mễ nói gì, cười rộng mồm, Mễ cười theo.
Rất cẩn thận, Mễ cho Hùng “móm” và Hùng “mập” cùng lên trãng trước. Hai cậu Hùng “bắt tay” nhau, làm thành vòng phòng thủ, phần còn lại của tiểu đoàn với đám thương binh “bò” lên tiếp... Xong rồi, khá an toàn, giữ được cái trãng là tốt, có đường thoát rồi.Duffy,có tàu bay chưa ?
- OK! Ten minutes, sir!
Nhưng không còn “ten minutes” nào cho Tiểu Đoàn 11 nữa! Một trận mưa rào, mưa đầu mùa... Mưa bởi một rừng cối và sơn pháo từ những cao độ phía đông “tưới” xuống. Bắc quân tấn công bộ từ đông-nam lên. Không hầm hố, không đạn, mệt mỏi, đói khát của bốn ngày đã đến đỉnh cao nhất chịu đựng. Tiểu đoàn 11 Nhẩy Dù lăn lộn, cựa quậy hấp hối trên trãng cỏ tranh trơ trụi dưới lưới chụp đan dầy bởi lửa, khói và mảnh đạn thép... Hàng sống, chống chết! Hàng sống, chống chết! Bắc quân ào ào như nước lũ tràn đi qua con đê bị vỡ. Tiểu đoàn 11 tựa tình cảnh con báo kiệt lực bị vây khốn bởi một rừng ong cực độc! Bây giờ là 8 giờ sáng của ngày 15-4-1972, Tiểu Đoàn Nhẩy Dù mới tinh của Anh Năm, tiểu đoàn đã khoan thủng bức tường thép của cộng quân ở Damber; tiểu đoàn “nướng sống” hai tiểu đoàn của sư đoàn Điện Biên trên cứ điểm C- Thua. Thua đau đớn và thua vô lý!! Đâu còn có thế để dựa vào. Đâu còn lực để đương cự ?!
Muốn đánh nhau phải có “thế” và “lực”.Thế đã mất ngay từ ngày đầu tiên khi bước xuống cao điểm với một nhiệm vụ “phòng thủ” quá mỏng manh thụ động, và lực nào còn nổi sau bốn ngày hay 156 giờ tác chiến căng thẳng trên các cao điểm nguy biến và thiếu thốn toàn diện. Hình như mọi người đều không ăn, uống kể từ ngày 12.Uống, nếu có chỉ là chữ gọi động tác “nhúng” chiếc lưỡi vào nắp bi đông ẩm ướt. Tan hàng!! Những người sống sót còn lại tan biến vào rừng cỏ tranh.
http://www.freewebs.com/td9nhaydu/Phu%2 ... TD11ND.jpg
Last edited by khieulong on Fri Feb 27, 2015 10:30 pm, edited 1 time in total.
Post by tiendung » Sat Jul 06, 2013 5:26 am
Đồi thông hai mộ
Ngay bên cạnh hồ Than Thở là một đồi thông ngút ngàn có tên gọi Đồi thông hai mộ - nơi đây được nhiều người biết đến bởi câu chuyện tình bi ai của một đôi trai gái trẻ.
Ngoài tên gọi hồ Than Thở, du khách còn được nghe người dân Đà Lạt gọi với tên Sương Mai, với ý nghĩa những hạt sương buổi sớm tinh mơ.
Bên cạnh đó là hai ngôi mộ đã được xây cất hơn 60 năm qua, của một cuộc tình duyên lỡ dở.
Ở Đồi thông hai mộ, một thắng cảnh nổi tiếng của Đà Lạt, bao năm nay luôn tồn tại nhiều sự tích ly kỳ về cái tên “Đồi thông hai mộ”, nhưng chỉ có một câu chuyện trong số đó là thật, ấy là câu chuyện tình bất hạnh của cô gái Lê Thị Thảo và chàng trai Vũ Minh Tâm, mà minh chứng cho câu chuyện tình đó chính là hai ngôi mộ nằm trên đồi thông hơn 60 năm qua.
Chuyện kể rằng, người con trai tên là Vũ Minh Tâm, con của đại điền chủ ở Gò Công. Vì là con một nên cha mẹ bắt có vợ sớm để có con nối dõi. Chàng vì một phần chưa muốn có gia đình, phần khác lại không muốn làm cha mẹ buồn nên lén đầu quân vào trường Võ Bị Đà Lạt. Thời gian học ở đây, chàng có quen một người con gái gia đình là công chức, cô gái tên Thảo.
Hai người tâm đầu ý hợp, yêu nhau tha thiết, hẹn biển thề non. Ra trường, Tâm về xin cha mẹ trầu cau cưới hỏi... nhưng gặp phải sự cản trở quyết liệt của gia đình. Cha mẹ chàng bắt chàng đi cưới người con gái mà chàng không hề yêu mến. Vì lẽ đó Tâm đã xin chuyển đến một vùng tuyến đầu lửa đạn.
Từ khi Tâm rời trường Võ Bị ra chiến trường, Thảo vô cùng đau khổ khi biết cha Mẹ Tâm không chấp nhận chuyện của hai người và còn thêm nỗi buồn lo cho người yêu đang vì mình mà lao vào tuyến đầu lửa đạn nên dù cha mẹ hết lòng khuyên lơn, dù không biết bao nhiêu người mối mai dạm hỏi, nàng cứ một mực đợi chờ chàng trở lại Những cánh thư từ chiến trường gửi về bây giờ là niềm vui, là lẽ sống của nàng . Cho đến một ngày, nàng nhận được tin báo tử từ chiến trường gửi đến. Quá buồn rầu nàng tìm đến khu đồi thông bên bờ hồ Sương Mai (nay là hồ Than Thở), nơi hai người xưa kia từng hò hẹn, tâm sự và tự tử chết , vào ngày 15 tháng 3 năm 1956, trên tay vẫn còn nắm chặt bức thư tình gửi người yêu. Trước khi chết nàng để lại bức thư xin người nhà chôn nàng trên đồi thông.
Nhưng thật ra Tâm chưa chết - người ta đã nhầm khi báo tử. Khi trở về Tâm mới hay Thảo đã chết và được chôn trên đồi thông vi vu gió ngàn. Vì quá đau buồn, sau đó cũng tự tử chết theo để giữ trọn lời thề non hẹn biển với người con gái anh yêu thương. Trước khi chết, anh để lại bức thư tuyệt mệnh với ước nguyện được chôn xác bên cạnh mộ nàng để hai người mãi mãi được gần nhau.
Gia đình, bạn bè đã chôn xác anh kề bên ngôi mộ Thảo và tạo thành ngôi mộ đôi nổi tiếng.
Sau ngày Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản, cha mẹ Tâm đã thuê người lên Đà Lạt bốc phần mộ anh đưa về quê vì lúc này họ đã tuổi cao sức yếu, không thể thường xuyên lên thăm mộ con. Dù phần mộ chàng trai đã được dời đi nhưng cảm thương mối tình của người con gái, cha mẹ, người thân của nàng vẫn để ngôi mộ đôi.
Đây vẫn là một danh lam thắng cảnh, thu hút hàng ngàn du khách đến hàng năm.
http://www.thoibao.com/giai-tri/thu-tin ... ong-hai-mo
Post by khieulong » Mon Jul 08, 2013 5:27 am
Thằng Lính Bạc Tình
Tưởng Năng Tiến
Cái được gọi là phòng V, truớc kia, có lẽ được dùng làm nhà kho. Người ta kê đủ bẩy cái giường đôi trong đó rồi ấn đại chúng tôi vào. Tôi không ưa nơi cư trú bất đắc dĩ này và ghét thậm tệ những thằng ở chung phòng với mình.
Hai chữ “chúng tôi,” trong trường hợp này, có lẽ cũng cần có đôi điều minh định. Mười ba thằng kia dứt khoát không phải là những sinh viên sĩ quan đàng hoàng tử tế. Phần lớn tụi nó đều là giáo sư, kỹ sư, hay cán sự gì đó và tất cả đều đã có vợ con hay đào kép lang chạ tùm lum hết trơn rồi.
Trong tương lai chúng sẽ trở thành những sĩ quan biệt phái, hoặc lính ngành lính nghề vớ vẩn gì đó thôi. Còn tôi, tôi mới là sinh viên sĩ quan thứ thiệt. Với học lực được ghi trong hồ sơ là “sinh viên văn khoa năm thứ hai” chắc chắn tôi sẽ ra trường với ám số tác chiến, và đương nhiên sẽ trở thành thứ lính “bóp cò”.
Tất nhiên, tôi đủ khôn ngoan và lịch sự để không bao giờ nói ra những ý nghĩ “thầm kín” này. Tôi cũng cố không tỏ ra khó chịu hay bực bội gì cả. Nói cách khác là tôi ăn ở cư xử hết sức biết điều; thế mà, vẫn không xong, vẫn chưa vừa lòng người – những thằng người... khốn nạn! Tụi nó kỳ thị tuổi tác ra mặt.
Tất cả đồng lòng gọi tôi là “lính sữa.” Điều khổ tâm là tôi không thể nào chối cãi đuợc rằng mình không... “sữa”. Bảng tên cùng số quân bắt đầu bằng hai số “72” gắn chình ình trên đầu giường ngủ là bằng chứng hùng hồn về số tuổi đời hơi yếu của tôi. Có thằng còn tuyên bố khơi khơi là nó sẽ gả con gái út cho tôi, nếu như tôi “ăn ở và cư xử... người lớn hơn chút đỉnh!”
Cái trò chơi mất dậy làm tụi nó vô cùng thích thú là thỉnh thoảng lại có đứa nằm hát ông ổng cho cả phòng nghe: “...năm hai mươi mốt tuổi, tôi đi vào quân đội mà lòng chưa hề yêu ai.” Nó hát dở như cứt mà cả đám vẫn cứ nhao nhao vỗ tay, và thế nào cũng có một thằng chó chết nào đó xía miệng vào:
- Mà nó còn lâu mới tới hai mươi mốt tuổi. Thằng này vô “động” đâu có em nào dám tiếp.
- Ủa, sao vậy?
- Mấy em sợ lỡ bị bắt thì ngoài tội mãi dâm ra còn dám bị ghép thêm tội dụ dỗ trai vị thành niên lắm.
- Đ... mẹ, vậy mà bữa trước xuống câu lạc bộ tao thấy nó cũng bày đặt mua dao cạo râu.
- Chắc nó mua để cạo lông.
- Lông nó cũng cóc có.
- Có, tao xác nhận. Bữa trước tắm chung tao thấy rõ ràng nó có mấy sợi lông, lông măng!
Tụi chó đẻ cứ tung hứng như vậy hết chuyện này sang chuyện khác rồi cười rũ rượi với nhau. Thật ra, không ai bắt tôi phải nằm chịu trận mãi trong phòng với những thằng mất dậy này. Vào giờ nghỉ tôi có quyền đi xem phim, mướn truyện, hay la cà tán tỉnh mấy em bán cà phê ở khu gia binh... Điều phiền là cứ mười lần bước chân ra khỏi sân đại đội là có đến chín lần tôi... mắc nạn, những tai nạn lảng xẹt mà tôi vẫn cứ bị hoài hoài.
Tôi rất hay quên đội nón, quên gài nút áo, quên gôm ống quần. Toàn là những thứ quên lãng hợp lý nhưng lại không được chấp nhận ở đời sống quân trường. Tôi thích nhìn nắng chiều hay nắng sớm lao xao trên những hàng cây nên đôi khi còn quên luôn cả chào huynh truởng nữa.
Có lần tôi quên không chào một thằng huynh trưởng thuộc tiểu đoàn 6, đại đội 61, trung đội 612. Nó móc cái nón sắt trên cột hàng rào và bắt tôi phải chào cái nón thổ tả đó 612 lần trong khi nó ung dung ngồi hút thuốc chờ tôi thi hành lệnh phạt. Nó đúng là một thằng... chó đẻ!
Lần khác, vào lúc trời vừa chạng vạng tối, tôi lạng quạng sao đó nên nhìn lầm một thằng siêu huynh trưởng ra một thằng cùng khóa. Nó đang đi tôi gọi giật lại để xin mồi thuốc.
Khi ánh lửa que diêm vừa lóe lên thì nó chợt nhìn ra màu khăn và màu bảng tên trên ngực áo của tôi, mộ thằng “siêu đàn em.” Nó gầm lên như một con hổ bị thương và bắt tôi phải “đột kích” xuống cái giao thông hào lõng bõng nước ngay trước mặt... bốn chục lần.
Sau những lần bị tai họa như trời giáng như thế tôi phải thu hết tàn lực mới lết được về phòng, nằm vật ra giường, trông thảm hại như một cái mền bông ngấm nuớc. Tụi mất dậy ở phòng V lại có dịp rú lên cười đùa châm chọc:
- Mẹ ơi, sao con khổ thế này!
- Đã bảo rồi, đi đâu phải có người lớn đi kèm, không bỏ được cái tật “dế mèn phiêu lưu ký” thì còn khổ nhiều con ạ.
Tôi thề có đất trời chứng giám là nếu còn sức tôi sẽ vùng dậy đấm vỡ mặt tất cả những thằng khốn nạn ở chung phòng nàỵ Tiếc thay, tôi lại mệt gần chết. Thể chất tôi không mạnh bằng người. Tôi phải đau buồn mà công nhận như vậy.
Tôi sinh ra trong một gia đình có đến chín anh chị em, và là đứa con ra đời ngoài dự liệu. Lúc tám tuổi, khi khổng khi không, thằng anh kế của tôi lăn đùng ra chết. Khi đó, dù đã ngoài năm mươi nhưng bố tôi vẫn còn muốn ráng có thêm một đứa con để nuôi chơi trong lúc tuổi già.
Ổng “ráng” không tới mức. Nếu người ta cần phải có cỡ một muỗm tinh trùng để tạo ra một thai nhi bình thường khỏe mạnh thì bố tôi, có lẽ, chỉ còn sản xuất được cỡ chừng vài ba giọt gì thôi.
Tôi gầy yếu là phải. Tôi chịu không nổi mấy chục lần đột kích hay vài trăm cái chào tay. Tôi buồn bố mẹ tôi và giận mấy thằng bạn ở chung phòng. Tôi hay hình dung ra những màn phục thù lâm li, gay cấn.
Tôi tưởng tượng khi mình vừa ra trường đã may mắn bắn trúng ngay đầu “đồng chí” Trần Văn Trà, hay Nguyễn Chí Thanh gì đó nên được đặc cách vinh thăng lên... đại úy – và được chỉ huy nguyên cả một tiểu ðoàn. Cùng lúc thế nào cũng có vài thằng, trong số mười ba thằng khốn nạn ở phòng V, bị xếp tụi nó “đì” đi tác chiến và vô phúc lọt ngay vào đơn vị của tôi.
Coi: Tôi đang ngồi ở văn phòng tiểu đoàn, ve cổ áo thêu ba cái bông mai đen thui, miệng ngậm ống tẩu, mặt nghiêm và buồn. Tụi nó khép nép bước vô, kính cẩn đưa tay chào trình diện. Với tất cả uể oải và lơ đãng, tôi sẽ đưa tay lên chào lại, mắt hơi nheo nheo, và miệng thì hình như có vẻ mỉm cười... Chỉ một “show” này thôi cũng đủ làm tôi thích chết đi được và yên tâm đi vào giấc ngủ.
Tôi sẽ còn khổ lâu, không chừng là vĩnh viễn, nếu không lanh trí chụp lấy cơ hội “vùng lên làm cách mạng.” Có chiều mới đi phép vào, vừa bước vô phòng, tôi đã nghe tụi nó cười như một lũ điên. Một thằng chợt hỏi:
- Ê, bộ mày đăng báo tìm bạn bốn phương hả?
- Cái gì?
Tôi giật thót người như bị điện giật. Tôi có thể làm hàng ngàn tỉ chuyện điên rồ nhưng “đăng báo tìm bạn bốn phương” thì không, không bao giờ, Giời ạ!
- Tao thấy có tên mày trên báo nè.
Nói rồi nó thản nhiên cầm tờ Văn Nghệ Tiền Phong đọc lớn cho cả phòng nghe:” Sinh viên sĩ quan Thủ Đức hai mươi mốt tuổi đời, một phần ba tuổi lính, yêu màu tím hoa sim, thích nhạc họ Trịnh và giọng ca Chế Linh, cần tìm một em gái tuổi đôi tám... Nếu hợp sẽ đi xa trong tương lai. Xin thư về KBC...”
Tôi ước ao ngay lúc đó có một quả bom nguyên tử nổ, hay ít nhất thì cũng có được một con rắn cực độc ở đâu đó nhào ra cắn một phát cho tôi toi mạng. Làm sao tôi có thể tiếp tục sống được nữa sau một chuyện lố bịch và nhục nhã đến thế này. Cách đùa giỡn ngu xuẩn của một thằng mả mẹ nào đó đã làm bầm dập quả tim vốn đã te tua tan nát của tôi từ mấy tháng nay.
Tôi hay quên cài nút quần, nút áo và hay quên chào huynh trưởng chỉ vì tôi đang... thất tình thế thôi! Tôi mới vào Thủ Đức có hai tháng thì nhận được thư của một thằng bạn. Nó long trọng buồn bã báo cho tôi biết là “tao thấy Ngọc Quế đi với một thằng sinh viên chính trị kinh doanh.” Trời đất, “tôi đi chinh chiến để nước yên vui,” đâu phải chuyện chơi, sao lại có một thằng sinh viên vô lương tâm nào đó bò ngay vô mùng của người yêu tôi như vậy chớ?
Tôi cố nghĩ rằng thằng bạn tôi đã trông lầm một con “khốn nạn” nào đó chứ không phải là Ngọc Quế; hoặc “lỡ” phải thì thằng sinh viên thổ tả nào đó (chắc chắn) chỉ là một người bà con xa gần gì đó thôi. Thiệt tình, tôi muốn viết thư hỏi thăm nàng về “người bà con” đó hết sức nhưng chỉ muốn vậy thôi chớ nhứt định không làm. Tôi ghen, giận, hận, buồn và – tất nhiên – tự ái. Tôi chỉ làm hai câu thơ ngắn gửi về Đà Lạt thôi:
Ngày xưa chán ngấy giảng đường.
Bây giờ lê bước quân trường, chán hơn!
Thư hồi âm chưa thấy đâu thì đã có chuyện “tìm bạn bốn phương” vô cùng tai hại nàỵ Tôi có cái tên nghe “ba tầu” chết mẹ, tầu hơn bất cứ một anh Tầu lai hay Tàu thiệt nào đã từng hiện hữu trên cuộc đời này, không thể nhầm hay lộn với bất cứ ai; đã vậy, chị em Ngọc Quế lại chuyên môn đọc báo Văn Nghệ Tiền Phong. Trời ơi, nếu mà nàng hiểu lầm rằng tôi đang “cần tìm một người bạn gái tuổi đôi tám” và “nếu hợp có thể sẽ đi xa hơn trong tương lai” thì sự nghiệp ái tình của tôi coi như là... chấm hết!
Bất thần tôi chộp cây M16 gần nhất trên giá súng, rút lẹ một băng đạn trong ba lô, nạp đạn, lên đạn rồi dí súng vô đầu thằng đang cầm tờ báo:
- Mày xé nát tờ báo tao coi.
Thằng em còn hơi có vẻ do dự thì tôi tôi mở khóa an toàn nghe cái “cốp”:
- Chậm tay là óc mày sẽ biến thành đậu hũ tức thì...
Mặt nó đổi màu chàm, mồ hôi trán rịn ra thành giọt, nó run run xé tờ báo ra từng mảnh nhỏ. Tôi đảo mắt một vòng, mọi thằng đều lấm lét. Tôi bỏ súng trở lại giá, lững thừng trở lại giường nằm. Cả phòng im phăng phắc. Từ đó, mấy thằng em ngán tôi thấy rõ!
Cũng kể từ đó cho đến chiều nay, khi tôi ngồi viết nhừng giòng chữ “thổ tả” này, đã mấy chục năm qua. Không biết bao nhiêu là nước sông, nước suối, nước cống, nước rãnh... đã ào ào chẩy qua cầu qua cống rồi? Thời gian chứng minh cho tôi thấy là “những thằng già khốn nạn” ở phòng V đều chịu chơi và chơi được. Chính tụi nó đã dậy cho tôi những bài học để đời về tình huynh đệ chi binh.
Khi mới ra trường tôi lãnh gần trọn một mùa mưa thối rừng thối đất. Có lúc thời tiết xấu đến độ đơn vị chúng tôi bị bỏ đói cả tháng trời chỉ vì chuyện tiếp vận vô phương thực hiện. Chúng tôi ăn rau bí và rau tầu bay chấm muối thay cơm. Cho đến khi muối cũng hết luôn thì tôi bắt đầu phát .. sảng!
Tôi chửi rủa lung tung qua hệ thống máy truyền tin. Bộ chỉ huy không đứa nào thèm trả lời tôi. Tụi nó còn dọa đưa tôi ra tòa án quân sự về tội phát ngôn bừa bãi. Tôi cóc sợ. Thỉnh thoảng tôi vẫn lên máy gào thét một cách vô vọng. Có hôm, bất chợt tôi nghe tiếng hỏi:
- Phải mày đang lải nhải như một con đĩ già ế khách đó không Lê Lai – Sơn Tây?
Lê Lai – Sơn Tây có nghĩa là “lính sữa” và đây là danh hiệu truyền tin không mấy dễ nghe mà tụi phòng V đã “gắn” cho tôi kể từ khi thực tập bài học truyền tin ở quân trường. Tôi mừng quýnh:
- Phải Lê Lai – Sơn Tây đây. Xin lỗi thẩm quyền nào đầu máy vậy?
- Thẩm quyền cái con... mả mẹ mày! Tango – Tư Tưởng phòng V đây, nghe rõ trả lời?
À ! thằng Tám Tàng, thằng mất dậy này sau khi ra trường về quân nhu hay quân vận gì đó. Nó thương tôi lắm. Nó “chuyên môn” lau súng giùm tôi mà.
- Ông đang ở đâu vậy Tango – Tư Tưởng?
- Tao mới về làm sĩ quan tiếp liệu cho đơn vị nè.
- Đ...mẹ, vậy thì ông phải cứu tôi tức khắc. Lính của tôi sắp chết đói hết rồi.
- Bộ mày không đói chắc?
- Ờ thì cũng đói thấy mẹ đây.
- Uống rượu được chưa con?
Thuở ấy, tôi uống rượu chưa được mấy nhưng vẫn cứ nói bừa:
- Được, dư được, nhưng lúc này nếu có cái gì để ăn thì có lý hơn.
Nó cười sằng sặc chế giễu:
- Nằm im đó đi, cỡ chiều là tao vô tới.
- Thiệt không?
- Sao không ! Tao chơi chưa để thằng nào nói mà mày, tin đi .
Thiệt tình tôi “không tin” gì mấy. Tôi biết rõ hoàn cảnh của mình hơn bất cứ ai. Chỉ có trời mới gỡ được cho tôi cú này thôi. Con đường duy nhất xe có thể chạy đến nơi tôi đóng quân được làm dở dang kể từ hồi còn Pháp, và đã bị bỏ hoang mấy chục năm rồi. Tụi công binh mới “clear” đâu chừng được một phần ba và chưa đổ đá. Mưa khiến con đường hóa lầy và có những đoạn nước từ triền núi đổ xuống y như thác vậy. Xe nào mà vô nổi, trừ khi Tám Tàng kiếm được một cái xe... tăng!
Tôi lại chui vào túi ngủ, lòng buồn, dạ đói, bụng hoang mang. Tôi ngủ với nhiều giấc mơ ngắn và đều có liên quan đến chuyện ăn. Tôi mơ thấy mình đi ăn với Ngọc Quế ở tiệm Tân Khánh Hoàn, ở đương Cường Để. Nắng chiều Đà Lạt vàng ươm, rực rỡ. Tôi gọi bao tử xào dầu hào với rau bố xôi, cơm bò xào bông cải, và chim mía rô ti...
Rồi tôi thấy mình cùng với những thằng bạn ấu thời đi bắt dế ở phi trường Cam Ly. Trên đường về chúng tôi bị mắc mưa nên chạy vào buôn Thượng. Bà mẹ người Thượng già cà răng móm mém chỉ chúng tôi ngồi quanh bếp lửa rồi lấy thật nhiều khoai lùi vào tro. Khoai chín thơm lừng và thật ngọt.
Có lúc tôi lại mơ thấy một bầy heo rừng vướng mìn claymore bị nổ thịt văng khắp nơi. Cả đơn vị hớn hở vội vàng chụm lửa. Thịt heo nướng chẩy mỡ xèo xèo bốc khói làm cay mắt và ứa nước bọt đến tận răng...
Rồi tôi bỗng nghe tiếng máy truyền tin rè rè cùng với tiếng Tám Tàng yếu ớt:
- Lê Lai – Sơn Tây, Lê Lai – Sơn Tây ... đây Tango – Tư Tưởng ...
Tôi và người lính truyền tin cùng chồm dậy, anh ta vội vàng chuyền ống liên hợp cho tôi:
- Lê Lai – Sơn Tây nghe, ông đang ở đâu vậy?
- Tao thua rồi!
Lần này thì giọng nói của nó nghe rõ vẻ thì thào. Tôi hoảng:
- Cái gì? Ông đang ở đâu mới được chớ?
- Mày đi theo con rắn lớn (con đường), qua giây ba chạc (ngã ba) một khúc xa, có thể cũng gần tới... Tao không biết chắc... Tao lên bộ trưởng (bị thương) rồi.
- Cái gì ? Đ... mẹ, đừng có giễu dở chớ Tango...
- ....
- Tango, Tango ...nghe không, trả lời?
- Nghe... mà đ... mẹ tao mệt quá rồi. Mày lẹ lên...
- Tango... Tango...
Nó im luôn. Tức tốc tôi khều thêm mấy thằng em lầm lũi đi ngược trở ra. Tôi cắm cúi lầm lũi dưới mưa mà lòng dạ rối bời. Chừng ba tiếng đồng hồ sau, theo vết trượt của bánh xe, tôi thấy một cái Dodge nằm lật nhào dưới lũng. Thực phẩm rơi đổ tung tóe theo sườn núi.
Chúng tôi chạy vội xuống nhưng đã muộn. Tám Tàng bò được ra khỏi xe, nằm nghoẹo đầu trên máy, xác đã lạnh rồi. Tài xế và binh sĩ đi cùng chết kẹt trong ca bin. Chúng tôi cố mang xác họ ra cùng với cà phê, thuốc lá và cả can rượu đế.
Trời vẫn tầm tã mưa và lẫn trong nước mưa tôi biết có nước mắt của mình. Tôi thật sự bắt đầu uống rượu từ chiều hôm đó và uống luôn cho đến chiều nay. Đã hơn một phần tư thế kỷ qua mà mỗi lần thoáng thấy hơi men tôi vẫn nhớ đến Tám Tàng. Tôi uống rượu hoài hoài, phần lỗi, không chừng là do... nó. Tôi muốn hành xác tôi chơi để Tám Tàng... vui lòng nơi chín suối.
Sau Tám Tàng, tôi gặp lại một nhân vật nữa của phòng V – ở trại tù binh. Ngày xưa, nó chính là thằng đã tuyên bố sẽ gả con gái út cho tôi nếu như tôi “ăn ở và cư xử người lớn hơn chút đỉnh.”
Thằng này ra trường về làm sĩ quan thảo chương viên cho Bộ Tổng Tham Mưu. Nói cách khác nó chỉ là một thứ chuyên viên xử dụng máy vi tính cho quân đội. Chỉ có vậy thôi mà đảng và nhà nước phải đẩy nó tuốt ra miền Bắc mới yên tâm.
Lúc chia tay nó dấm dúi hết cho tôi những thứ quà vừa nhận được của gia đình, kể cả chút tiền và ít thuốc tây. Tất nhiên, tôi từ chối:
- Ông cần mấy thứ này hơn tôi chớ.
Nó cầm tay tôi, nghiêm nghị y như là cảnh Nguyễn Phi Khanh dặn dò Nguyễn Trãi ở Ải Nam Quan vậy:
- Tao cần mẹ gì nữa. Chuyến này kể như là tao đi đứt rồi.
- Mày còn trẻ, lại không bị tụi nó đì ra Bắc. Thủ mấy thứ này cho ấm thân và cố giữ lấy mạng để còn có lúc trở về. Phải về lo lấy lại đất nước và trả thù cho tụi tao, nhớ chưa?
- Nhớ!
Xui cho nó, tôi không thuộc tip người Nguyễn Trãi. Tôi chỉ nói đại mẹ là “nhớ” để nó yên tâm đi vào chỗ chết. Thiệt tình thì tôi không nhớ gì hết ráo. Sau vài năm tù, tôi được thả về y như nó dự đoán. Có điều tôi tuyệt nhiên không hề lo chuyện “lấy lại đất nước” như đồng đội đã dặn dò; đã vậy, tôi còn bỏ nước để chạy tháo thân và lập tâm chuyến này là... dông tuốt!
Cái thứ người như tôi cứ mỗi lần nhậu xỉn mới chợt nhớ ra mình đã từng là lính, mới ba hoa về những năm tháng tù đầy, mới khề khà luận bàn về tình chiến hữu, về chuyện đấu tranh... này nọ. Tỉnh ra tôi lại lút cút đi làm, lại sống như mình chưa hề là lính, chưa từng có thằng vì tôi mà bỏ mạng, chưa có đứa đã chí tình dặn dò tôi lo chuyện quang phục quê hương. Lính có năm bẩy đường, năm bẩy thứ. Cái thứ như tôi ngó bộ có hơi kỳ và cũng hơi nhiều.
Tưởng Năng Tiến
Post by caubennoc » Wed Jul 10, 2013 3:36 am
Dép râu, ngày về
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, hắn “được Cách Mạng khoan hồng nhân đạo tập trung để bảo vệ tính mạng cho, vì nếu để ở ngoài sẽ bị nhân dân trả thù”. Huyện Củng Sơn thuộc tỉnh Tuy Hòa là vùng hoạt động của “Cách Mạng” trước 75. Lúc mới “nhập môn” giữa vùng rừng núi này, mỗi lần đi ra ngoài “học tập lao động để sau này trở về không còn bóc lột như thời Mỹ Ngụy nữa, mà biết tự mình làm ra của cải vật chất hầu nuôi sống bản thân, gia đình và đóng góp cho xã hội”, hắn nơm nớp sợ đồng bào địa phương có tiếng là dân Cách Mạng, sẽ trả thù (thù gì thì hắn không biết), nếu họ bắt gặp và nhận ra hắn là “ngụy quân”.
Một hôm, trên đường đi “lao động là vinh quang” ngang qua khu chợ, có mấy người dân chạy theo đoàn tù binh. Hắn lo lo; đang lúc chuẩn bị tinh thần chịu trận “nhân dân trả thù” thì có người dí vào túi áo hắn gói thuốc lá Sông Cầu. Đó là một nhân dân hoàn toàn xa lạ. Hắn sững sờ, chưa kịp nói lời cảm ơn thì người đàn bà ân nhân đã lách vội vào đám đông như tìm đường chạy trốn. Từ đó về sau, nhiều người trong đám tù và hắn lâu lâu lại được “nhân dân trả thù” như thế; khi cục đường mía, lúc miếng kẹo lạc.
Lại một hôm, đám tù được thả lỏng phân tán mạnh ai nấy tự đi tìm... cỏ tranh để cắt (về lợp nhà). Hắn được một phụ nữ quần áo vá đùm vá đụp mặt hốc hác, chạy đến trước mặt, mắt dáo dác ngó trước ngó sau một vòng rồi dí vào tay cho cái bánh ú làm bằng bột củ sắn mì với nhân hột mít. Chị ta nói “Anh ăn cho đỡ đói. Bây giờ chúng tôi mới hiểu ra..., và thương các anh quá”.
Không thấy “Nhân dân trả thù” mà chỉ gặp nhân dân “Thương các anh quá”, nhưng Cách Mạng vẫn nhất quyết tiếp tục “Bảo vệ tính mạng cho Ngụy quân ngụy quyền, những kẻ có tội với nhân dân mà lấy hết trúc Trường Sơn làm bút, lấy sạch nước Biển Đồng làm mực cũng tả không xiết”. Tháng lại tháng. Năm qua năm. Đêm đêm nằm nêm cối đến ngộp thở trong những dãy nhà được bao bọc bởi nhiều lớp kẽm gai xen kẽ lớp xương rồng rồi lớp mìn bẫy, lớp hầm chông. Ngày ngày đi ra ngoài làm đủ thứ công việc của người tù khổ sai. Khi đi lẫn lúc về, đoàn tù binh phải dừng lại nơi cổng ra vào để lính gác đếm. Đi, đếm rất mau; về, vừa đếm vừa khám xét khắp người tù xem có lận theo trong túi áo thắt lưng con cóc con nhái, con rắn con rít, hay cọng rau nạm cỏ (Như cỏ sam heo ăn được là tù ăn được)... gọi chung là những thứ “Cải thiện linh tinh” bị cấm ngặt, nên trong khi chờ đợi, cứ phải ứa gan với cái bảng đỏ to tổ chảng trước mặt treo vắt ngang giữa hai cái lô cốt chằm chằm hai bên cửa ra vào, có hàng chữ màu vàng khè “Không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do” phía trên hàng chữ “Trại Cải Tạo A30”. Mỗi lần như thế, hắn lại hình dung ra cảnh tú bà cho treo trước cửa nhà chứa của mụ, cái băng trắng chữ đỏ “Chữ Trinh đáng giá ngàn vàng”.
“Ngày như lá tháng như mây”, chỉ là với thế giới bên ngoài. Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Hắn thường bày tỏ rằng, nhờ Ơn Trên phù hộ hắn mới qua khỏi hơn 2500 cái “thiên thu tại ngoại”, để có ngày được “Cách mạng khoan hồng” cấp cho tờ “Giấy Ra trại”. Trên đường về với gia đình tận vùng Cao Nguyên, hắn phải ghé lại Nha Trang để chờ mua vé xe cho chặng đường cuối. Hắn đi lang thang để nhìn lại cảnh cũ người xưa nơi thành phố mà hắn đã qua nhiều thời kỳ gắn bó. Thuở nhỏ “du học”; lớn đi thi Tú Tài; mấy tháng học Không Trợ tại Trường Không Quân, và những lần “quá cảnh” trên đường đi đi về vê. Người thiếu nữ đầu tiên đi qua đời hắn cũng từ bãi thùy dương cát trắng này. Nha Trang đã là một phần đời hắn.
Hắn đi ngang quầy bán thuốc lá lẻ bên lề đường Nguyễn Hoàng. Bỗng dưng hắn nhớ và thèm một điếu thuốc CAPSTAN ngày nào. Sau khi tính nhẩm và chắc chắn số tiền Trại cải tạo cấp cho theo tiêu chuẩn nhà nước làm “của ăn đi đường” còn đủ để mua được hai điếu thuốc lá Song Long (hắn biết giá thuốc vì Trại thỉnh thoảng có mua giùm cho những ai có tiền cần mua), hắn mạnh bạo tiến đến phía quầy bán thuốc. Đã gần bảy năm, nay hắn mới được thấy lại nụ cười chào khách của những người bán thuốc lá bên đường mà trước kia hắn thường gặp. Hắn hân hoan như vừa tìm lại được một điều gì quý hóa đã mất từ lâu lắm. Nhưng bỗng dưng hắn chưng hửng khi thấy mặt cô gái bỗng nhiên tối sầm lại và tỏ vẻ dửng dưng với khách. Hắn ngạc nhiên trước thái độ thay đổi đột ngột của cô gái. Hắn kiểm điểm lại mình, và đinh ninh mình không hề có cử chỉ khiếm nhã nào hay nói năng gì khác ngoài lời hỏi mua thuốc lá. Hắn sực nhớ lúc nãy cô gái có liếc mắt xuống đôi chân hắn. Hắn chợt thoáng “lý đoán” ra nguyên nhân. Nhìn thẳng vào mặt cô bán thuốc, với vẻ nghiêm trang, hắn nói :
“Anh vừa từ trại Cải tạo ra, đang trên đường về, nên đành phải mang đôi dép này.”
Khi hắn vừa mới nói đến “Anh vừa từ trại cải tạo ra”, cặp mắt cô gái sáng lên và đôi má cô ửng hồng, nhếch lên để lộ ra cái núm đồng tiền. Hình như cô muốn nói điều gì mà không cất lên được. Cô luống cuống lấy trong hộc ra gói thuốc Hoa Mai còn nguyên rồi bằng hai tay đưa lên sát ngực hắn, với ánh mắt thương cảm trìu mến :
“Anh cầm lấy, em biếu anh. Rất tiếc không còn thuốc trước 75.”
Hắn đã bỏ hút thuốc từ lâu, nhưng vẫn nhớ mãi gói thuốc của ba mươi năm về trước. Mỗi tháng Tư về, hắn lại càng thấy món nợ hắn mắc mỗi to hơn. Không phải nợ cái gói thuốc lá cô gái biếu. Nhưng là nợ chính cuộc đời cô mà hắn đã không bảo vệ được. Để ít ra cô khỏi phải nhìn thấy những đôi dép Tháng Tư.
Post by khieulong » Thu Jul 25, 2013 7:09 am
Chim Bay Về Biển
(thay vòng hoa tiễn biệt Hải-Âu Phan Công Minh)
Một mai chim bỏ bay về biển
Ta đứng một mình ngó nhánh sông
Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy
Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng
(Sương Mai)
Buổi chiều, mùa hè Bắc Âu thường có những ngày mưa, ảm đạm. Tôi nhận được thư của bạn Dương văn Hiệp, giám đốc Đài Phát Thanh Nationwide Viet Radio(NVR) từ Hoa Thịnh Đốn, người em họ thương quí của Minh, báo tin Phan Công Minh vừa mới ra đi, trước đó chừng một tiếng đồng hồ. Lòng tôi chùng xuống, điều mất mát lớn lao ấy đã cho tôi cái cảm giác trống rỗng, mọi thứ chung quanh bỗng dưng đều trở thành vô nghĩa. Ngoài trời dường như gió đã ngưng thổi, một cơn mưa hạ vừa đổ xuống những hàng thông đứng lặng yên như chịu tang. Cơn mưa rào đến ào ào nhưng dứt sớm. Đứng trên bao lơn nhìn ra phía trước. Cả một vùng không gian tĩnh lặng. Trước mắt tôi chỉ còn một điểm cử động duy nhất: cánh chim. Cánh hải âu lẻ loi, thư thả, nhịp đôi cánh như hai mái chèo của con thuyền nhỏ trên dòng sông tĩnh mịch, rồi từ từ mất hút giữa không trung. Bất chợt, tôi hình dùng đến Phan Công Minh, một cánh chim Hải Âu (*) vừa trở về với biển.
Đầu mùa đông năm ngoái, khi vừa sang Cali thăm mấy cô con gái và trốn cái lạnh Bắc Âu, nghe tin Minh bị ung thư gan, trong thời kỳ hóa trị, tôi gọi hỏi thăm. Minh sụt cân, chỉ còn khoảng 30 kg. Vậy mà vẫn vui cười sốt sắng:
-Nếu dưới đó anh em gặp nhau, có gì vui, hú một tiếng em sẽ bay xuống ngay.
Tôi cười :
-Minh còn yếu, cần giữ gìn sức khỏe.
Minh bình thản và lễ phép như bản tính ngày nào:
-Em đã qua bao nhiêu năm lăn lộn ngoài chiến trường. Cái chết như đến bất cứ lúc nào. Sống được tới bây giờ là số mạng đã lớn lắm, nên em chẳng màn đến chuyện tử sinh.
Chúng tôi, đám bạn bè cùng đơn vị thường xuyên gọi cho Minh, gởi cho Minh những bài thuốc dân gian về trị bệnh ung thư. Minh cho biết đã dùng lá đu đủ và thấy hiệu quả, nhưng lúc trồi lúc sụt. Có lúc yếu quá, Minh không dùng điện thoại được, nhưng bảo cháu Mẫn, trưởng nam thương quí, gọi chúng tôi, cho biết tình hình. Khỏe lại một chút, Minh lại bắt đầu gởi email thăm hỏi, chuyển những tin tức về các cuộc đấu tranh của những người trẻ ở quê nhà, và tâm sự bao điều với anh em. Hai tuần sau lại im lặng. Một thứ im lặng đáng sợ, như ngày xưa, Minh dắt toán viễn thám nhảy vào vùng địch. “Im lặng vô tuyến” là dấu hiệu địch đang ở rất gần, nguy hiểm. Bỗng mới đây, cháu Mẫn gọi báo:
-Ba cháu đã yếu lắm, chắc không còn nhiều thời gian. Các chú, bác sắp xếp có thể lên gặp ba cháu lần cuối cùng!
Lúc nhận được tin này, vợ chồng tôi đang ở thăm hai người bạn tù tại thành phố Bruxelles, Vương Quốc Bỉ. Tôi điện thoại cho anh Ngô Văn Xuân, ông anh cả khả kính và hết lòng của đơn vị, cùng Mai Xuân Bê, người bạn thân cùng quê, cùng trường thời trung học và cùng đơn vị sau này, thúc dục đi thăm Minh. Tin tức được nhanh chóng chuyền đi đến rất nhiều anh em khác. Nhưng tất cả quyết định không đi nữa, vì Minh đã quá yếu và gia đình đang bận rộn chuẩn bị hậu sự cho Minh. Sự có mặt của bạn bè anh em trong lúc này chỉ gây thêm phiền toái cho gia đình, vợ con Minh. Rồi cũng chỉ ba hôm sau, mọi sự đã kết thúc. Phan Công Minh đã thực sự nhắm mắt, sau khi nhắn nhủ với vợ con và nhắn gởi lời vĩnh biệt anh em, đồng đội cũ. Yêu cầu duy nhất của Minh là muốn bạn bè ở Cali gởi lên một lá cờ VNCH để vợ con phủ trên di thể và hỏa táng theo Minh.
Sinh ra và lớn lên ở Phan Thiết. Trước khi bước chân vào quân trường Thủ Đức, Minh là một học sinh ưu tú của trường trung học Phan Bội Châu. Tốt nghiệp Khóa 27 Thủ Đức, Minh xin được về phục vụ tại Trung Đoàn 44BB, lúc ấy bản doanh đặt tại trại Lý Thường Kiệt Sông Mao, cách Phan Thiết khoảng 60 cây số về hướng Bắc.
Tình nguyện vào Đại Đội 44 Trinh Sát, vào thời kỳ đơn vị này đang nổi danh, tạo nhiều chiến thắng vẻ vang, dưới sự chỉ huy của Trung úy Trần Công Lâm.
Sau khi tốt nghiệp Khóa Viễn Thám tại TTHL/BĐQ Dục Mỹ, Minh về đơn vị nắm trung đội Viễn Thám. Với khả năng bén nhạy và tính gan dạ liều lĩnh, Minh tiếp tục tạo nhiều chiến công, và được cân nhắc lên làm Đại Đội Phó Tác chiến (khi ấy có Đại Đội Phó CTCT do Th/úy Nguyễn văn Lễ, tốt nghiệp Khóa 1/ĐH.CTCT đảm trách). Cùng với trung úy Trần Công Lâm, một đàn anh, xuất thân Khóa 18 Thủ Đức, một đại đội trưởng “ngoại hạng”, đại đội phó Phan Công Minh liên tục tạo thêm nhiều chiến thắng lẫy lừng. Chiến công của ĐĐ 44 Trinh Sát đã đưa Trung Đoàn 44 trở thành đơn vị xuất sắc nhất của Quân Đoàn II trong suốt mấy năm liền. Minh đựợc thăng cấp đặc cách và nhận rất nhiều huy chương tưởng thưởng.
Đầu tháng 2/1972, toàn bộ Trung Đoàn di chuyển khẩn cấp lên An Khê để thay thế vị trí của Đơn vị 101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và giải toả một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn, dọc theo đèo An Khê trên QL 19, bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hảm.
Đến nơi đúng vào chiều mồng một Tết, Đại Đội 44 Trinh Sát được chỉ định làm lực lượng chính đánh vào sau lưng địch. Chỉ trong hai hôm , tất cả các căn cứ Đại Hàn đều được giải tỏa. Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT, và Đại Tướng Tư Lệnh Lực Lượng Đồng Minh Đại Hàn tại VN bay lên An Khê để mừng chiến thắng và ngợi khen các đơn vị tham chiến, đặc biệt là Đại Đội 44 Trinh Sát.
Ngày 24/4/72, căn cứ Tân Cảnh thất thủ khi Bộ Tư Lệnh của Sư Đoàn 22BB bị địch quân tràn ngập và vị Tư Lệnh, Đại Tá Lê Đức Đạt đã vùi thây nơi chiến địa. Ngày 13/5 toàn bộ Trung Đoàn 44BB có lênh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum và ngay sau đó đã liên tiếp tạo nhiểu chiến thắng lẫy lừng giữ vững được Kontum trong suốt mùa hè đỏ lửa. Trung Đoàn 44BB trở thành một trong những đơn vị thiện chiến nhất của QLVNCH trong năm 1972 khói lửa. (theo bản xếp hạng của Bộ TTM)
Đại úy Trần Công Lâm được điều sang làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3/44 , bàn giao Đại Đội 44 TS lại cho Trung úy Phan Công Minh, người đại đội phó mà anh rất tin tưởng quí mến. Với một chiến trường cam go, mà lực lượng địch gồm những Sư Đoàn Thép 320, Sư Đoàn 2 Sao Vàng, lúc nào cũng có nhiều ưu thế hơn ta từ quân số đến vũ khí, chiến xa, Đại Đội 44 TS dưới tài chỉ huy của Phan Công Minh đã chứng minh rất hùng hồn về khả năng của chính mình cũng như của đơn vị bách chiến bách thắng này.
Đặc biệt, Minh đã chỉ huy Đại Đội đánh một trận thần tốc, chỉ bằng lựu đạn và cận chiến, giải cứu cho một đơn vị BĐQ /BP bị vây trên đỉnh núi ChuPao. Minh bị thương nhưng vẫn tiếp tục điều quân, vừa phá vòng vây cứu nguy cho đơn vị bạn, vừa diệt những cái chốt cuối cùng, khai thông QL 14, để lực lượng chiến xa của Lữ Đoàn II KB lên tăng cường cho mặt trận và hộ tống đoàn xe tiếp tế, lần đầu đến Kontum kể từ khi cuộc chiến khởi đầu. Tướng Trần văn Hai, nguyên Chỉ huy trưởng BĐQ, lúc ấy là TLP/ QĐII đã đến QYV Pleiku ôm lấy người đại đội trưởng trẻ tuổi tài ba gan dạ Phan Công Minh ngay khi vừa mới được tản thương về, và gắn lon đại úy cùng anh dũng bội tinh với nhành dương liễu cho Minh tại đây. Lúc ấy Minh vừa tròn 25 tuổi.
Sau khi xuất viện, Minh được điều động về làm Tiểu Đoàn Phó 3/44 cho Trần Công Lâm. Hai anh em từng sống chết bên nhau ở ĐĐ44TS bây giờ gặp lại nhau ở cấp chỉ huy của một tiểu đoàn thiện chiến. Nhưng “trong chinh chiến có mấy người trở lại”, tháng 12/1973, người “hùng” vang danh một thời Thiếu tá Trần Công Lâm đã anh dũng hy sinh trên đỉnh núi Ngok Wang đìu hiu gíó hú. Minh tạm thời XLTV Tiểu Đoàn. Hai tháng sau, Sư Đoàn bổ nhậm một vị thiếu tá từ trung đoàn khác sang làm tiểu đoàn trưởng, nhưng không bao lâu, anh ta bất ngờ được thuyên chuyển đi nơi khác, Tiểu Đoàn Phó Minh lại lên thay, Quyền Tiểu Đoàn Trưởng, tiếp tục chỉ huy đơn vị. Chiến trường ngày càng ác liệt hơn sau khi Hiệp Định Paris vừa ký chưa ráo mực. Bọn CS tráo trở ngang nhiên vi phạm trước sự bất lực của Hoa Kỳ và các quốc gia ký tên trong bản hiệp định bất công, ngu xuẩn ấy. Minh bị thương trong một trận chiến đẫm máu. Sau khi xuất viện, được người anh cả trung đoàn, Trung tá Ngô văn Xuân, người luôn thương yêu quí mến Minh, kéo về làm Trưởng Ban 3 (Hành Quân) cho Trung Đoàn.
Giữa tháng 3/75, thành phố Ban Mê Thuột, mất vào tay giặc. Trung Đoàn từ Hàm Rồng-Pleiku, lần lượt được trực thăng vận khẩn cấp xuống Phước An trong kế hoạch tái chiếm thành phố này. Minh theo BCH Trung Đoàn trong đợt đầu tiên. Khi cuộc đổ quân chưa hoàn tất thì Pleiku và Kontum có lệnh di tản. Hơn một nửa đơn vị còn kẹt lại ở Pleiku phải triệt thoái theo con đường “tử lộ” 7.B. Hai tiểu đoàn gần như bị xóa sổ và hai người bạn tiểu đoàn trưởng đã tự sát không để lọt vào tay giặc.
Khi đại quân với cả trung đoàn xe tăng của Cộng quân từ Ban Mê Thuột tràn xuống Phước An theo QL 21, ông Tân Tư Lệnh SĐ23BB mới nhận chức, vừa cất cánh rời khỏi ngọn đồi Chu Cúc sau một cái bắt tay đầu tiên vội vã với vị Trung Đoàn Trưởng, Cộng quân bao vây và tràn ngập nơi BCH Trung Đoàn được bảo vệ chỉ một đại đội trinh sát đang tạm đóng quân chờ lệnh. Với khả năng và kinh nghiệm điều quân cùng sự gan dạ can trường trong bao nhiêu năm binh nghiệp, vị Trung Đoàn trưởng và anh Trưởng Ban 3 chỉ còn khả năng tìm lối thoát, bảo toàn cho binh sĩ dưới quyền.
Đó cũng là thời điểm kết thúc oan nghiệt cho số phận một Trung Đoàn BB thiện chiến và của hai vị Sĩ quan chỉ huy bách chiến bách thắng, chưa hề nghĩ có một ngày phải đành buông súng.
Sang Mỹ theo diện HO, Minh cùng gia đình sống âm thầm ở một thành phố ngoại ô New York, nơi có bãi biển rất đẹp, để mỗi chiều Minh ngồi nhìn ra biến khơi mà tưởng nhớ tới quê nhà, hình dung tới bao nhiêu khuôn mặt anh em đống đội cũ, kẻ chết, người sống, đang trôi dạt muôn phương, nhưng tất cả đều đã từng cùng Minh anh dũng xông pha chiến trận, từng vui đùa yêu thương trên nỗi chết. Tất cả cũng như Minh, từng có một thời sống rất đáng sống. Minh từng ước ao trở thành cánh chim Hải Âu, bay ra biển khơi tìm về các chiến trường xưa, nghe lại tiếng hò reo chiến thắng của những anh em đồng đội cũ.
Mỗi lần có tin bạn bè ở xa tới, gặp mặt nhau ở một nơi nào đó trên nước Mỹ, là Minh đều có mặt. Vẫn trầm ngâm, ít nói, uống rượu không biết say, và luôn kính trên nhường dưới, biết anh biết em như thuở còn trong lính.
Sang Mỹ, Minh làm hai job, thời gian còn lại chưa đủ cho một cơn say, nhiều đêm thức trắng như thuở ngồi trong rừng suốt đêm chờ địch. Lo lắng, sắp xếp cho vợ con có đời sống, học hành ổn định xong, cũng là lúc Minh phải chiến đấu với căn bệnh ung thư quái ác. Và vẫn sống vui vẻ thanh thản cho đến giờ phút từ biệt thế gian này.
Trước khi nhắm mắt, Minh đã cố gắng nở một nụ cười, khi nghĩ là mình sắp trở về chiến trường xưa, gặp lại bao nhiếu bạn bè đồng đội đã hy sinh trong những năm tháng bên nhau cùng chiến đấu, và chưa hề chiến bại.
Từ đây, đám bạn bè còn lại, mỗi lần gặp nhau, dù rượu XO cũng sẽ trở nên nhạt thếch và những nụ cười sẽ không tròn, bởi thiếu Phan Công Minh, một đồng đội, một người bạn, một người anh em mà hai chữ yêu thương , ngưỡng mộ, dường như vẫn chưa đủ để diễn đạt được hết lòng mình.
Tạm biệt, và hẹn gặp Minh ở một nơi an bình vĩnh cửu. Không còn có chiến trường, tiếng súng, và không có hận thù giữa những con người.
London 21/7/2013
(*) "Hải-Âu" là danh hiệu của đơn vị (TRĐ. 44BB)
Phạm Tín An Ninh
Last edited by khieulong on Fri Feb 27, 2015 10:27 pm, edited 1 time in total.
Post by khieulong » Mon Jul 29, 2013 5:51 pm
Ðại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 7 thu được trên $500,000
Sunday, July 28, 2013 8:21:05 PM
Linh Nguyễn/Người Việt
(tường trình từ San Jose, California)
SAN JOSE, California (NV) - Chỉ trong bảy giờ đồng hồ, Ðại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 7 (ÐNHCOA), diễn ra từ 12 giờ đến 7 giờ tối Chủ Nhật,
tại sân vận động trường trung học Yerba Buena, San Jose, thu được $550,000, bao gồm tiền bán vé, tiền thu tại chỗ do đồng hương
đóng góp, và tiền đồng hương đóng góp qua hãng điện thoại V247, chưa kể số tiền hay chi phiếu còn tiếp tục gởi về, theo ban tổ chức cho biết.

Thành viên câu lạc bộ Cựu Học Sinh Liên Ðoàn Quảng Ðà và Liên Hội Cựu Chiến Sĩ
Bắc California hợp ca bài “Xuất Quân” khai mạc đại hội. (Hình: Người Việt)
Sunday, July 28, 2013 8:21:05 PM
Linh Nguyễn/Người Việt
(tường trình từ San Jose, California)
SAN JOSE, California (NV) - Chỉ trong bảy giờ đồng hồ, Ðại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 7 (ÐNHCOA), diễn ra từ 12 giờ đến 7 giờ tối Chủ Nhật,
tại sân vận động trường trung học Yerba Buena, San Jose, thu được $550,000, bao gồm tiền bán vé, tiền thu tại chỗ do đồng hương
đóng góp, và tiền đồng hương đóng góp qua hãng điện thoại V247, chưa kể số tiền hay chi phiếu còn tiếp tục gởi về, theo ban tổ chức cho biết.
Thành viên câu lạc bộ Cựu Học Sinh Liên Ðoàn Quảng Ðà và Liên Hội Cựu Chiến Sĩ
Bắc California hợp ca bài “Xuất Quân” khai mạc đại hội. (Hình: Người Việt)
Trước đó, nghi lễ chào cờ Việt Mỹ và một phút mặc niệm diễn ra rất trang trọng dưới ánh nắng chói chang và rất đông đồng bào và quan khách tại San Jose tham dự.
“Chúng ta phải lo cho các anh em thương phế binh vì họ hy sinh ở lại. Chúng ta nợ anh em món nợ tinh thần. Họ mất cả quốc gia, mất cả một phần thân thể. Chúng ta phải làm một điều gì để nhớ ơn họ,” ông Nguyễn Hồng Tuyền, cựu đại tá Không Quân VNCH, trưởng ban tổ chức, tuyên bố.
Bên phải khán đài là bảng tưởng niệm năm vị tướng tuẫn tiết khiến một số người đến chiêm ngưỡng và lắng lòng tưởng niệm.
Trước đó, ông Lê Văn Chính, phối trí viên đại nhạc hội, giới thiệu cựu Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, hội trưởng Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh, Quả Phụ VNCH, phát biểu.
“Tôi xin giới thiệu phái đoàn Nam California gồm 18 người. Chúng tôi rất ngưỡng mộ sự tổ chức chu đáo của ban tổ chức cùng các cơ quan, đoàn thể tại địa phương, nhất là những đóng góp đáng kể hàng trăm ngàn cho hàng chục ngàn gia đình thương phế binh và gia đình ở quê nhà,” bà Nhơn nói.
Bà nói thêm: “Chúng tôi ngưỡng mộ mọi đóng góp chân tình của mọi giới để cứu trợ. Người nhận rất vui mừng, tuy nhiên, cũng có trường hợp khi nhận được tiền thì người thương phế binh đã qua đời. Chúng tôi cố gắng rút ngắn thời gian để chuyển những món quà ân nghĩa của mọi người trong tương lai.”
Ca sĩ Huy Hoàng cầm thùng tiền đi xuống khán giả xem đại nhạc hội. (Hình: Người Việt)
Sau đó, ông Chính giới thiệu hai MC chính, Nam Lộc và Việt Dzũng, điều khiển chương trình.
“Chúng tôi rất vui vì thấy càng ngày càng có nhiều đoàn thể tham gia tổ chức, ở nhiều nơi. Nhất là thấy thế hệ trẻ đã dấn thân, đảm nhiệm một phần của công việc cứu trợ,” nhạc sĩ Nam Lộc nói.
Trong khi đó, nhạc sĩ Việt Dzũng cất tiếng sang sảng: “Cám ơn các thương phế binh QLVNCH. Chúng tôi và đồng bào không quên quý vị.”
Ðại hội khai mạc bằng màn hợp ca bài “Xuất Quân,” với nhiều thiếu nữ mặc áo dài màu vàng và màu đỏ đứng tạo thành màu lá cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH.
Ca sĩ Ðặng Thế Luân, trong một bộ quân phục VNCH, làm mọi người xúc động với bài hát “Nhớ người thương binh,” lời phổ từ một bài thơ của thi sĩ Thái Tú Hạp.
“Là thương binh, ta sống khổ đã thành quen. Ðốt hết cuộc đời nghiệt ngã đau thương. Nhân gian tưởng chừng như đã quên ta... An Lộc, Khe Sanh,” anh cất cao tiếng hát.
Vừa lúc ấy, một thương phế binh, cũng trong bộ quân phục, chống nạng lên bắt tay người ca sĩ trẻ, làm mọi người không cầm được nước mắt.
Người thương binh ấy là ông Lê Sĩ Hòa, 69 tuổi, cư dân San Jose. Ông từng phục vụ Sư Ðoàn 22 Trinh Sát ở Bình Ðịnh, mất một chân trong trận đánh năm 1970 tại đồn Ðại Sơn, huyện Phú Mỹ.
Ông giải ngũ năm 1971, có vợ và sáu người con.
Hàng ngàn đồng hương Bắc California và các tiểu bang về tham dự Ðại Nhạc Hội
Cám Ơn Anh kỳ 7. (Hình: Người Việt)
“Tôi giải ngũ vì tàn phế 90%,” ông nói.
Rồi ông bước đến chào cựu Trung Tướng Lâm Quang Thi trên đường trở lại chỗ ngồi.
Nói đến sự đóng góp trong tình hình kinh tế hiện tại, ông Trương Thành Minh, chủ tịch Cộng Ðồng Người Việt Quốc Gia San Jose, nói: “Tôi nghĩ sự đóng góp có thể bị ảnh hưởng, nhưng không nhiều, vì tấm lòng của đồng bào rất thương các thương phế binh.”
Chị Lộc Phạm, cùng chồng từ Texas qua, chỉ để tham dự đại nhạc hội kỳ này, chia sẻ trong sự xúc động: “Tôi và gia đình tham dự hai lần ở Texas và lần đầu ở đây. Chồng tôi là sĩ quan Hải Quân Khóa 26. Tôi có một đứa con trai duy nhất mới đi lính Không Quân Hoa Kỳ.”
MC Ðỗ Tân Khoa kể chuyện anh đeo chiếc lon đại úy của thân phụ để lại và giọng bỗng chùng xuống, trước khi đọc danh sách các mạnh thường quân đóng góp tại chỗ.
“Gia đình em 7 người qua Mỹ năm 2006. Hôm nay, chẳng những là nghĩa vụ mà còn là trách nhiệm, một đóng góp rất nhỏ nhoi cho những chiến sĩ đã dâng hiến cho quê hương và đồng bào. Họ đang sống thiếu thốn ở Việt Nam, chúng em rất biết ơn họ,” anh Nguyễn Kim Sơn, 31 tuổi, nói.
Cô Nam Minh, xướng ngôn viên đài truyền hình Viet Today, chia sẻ: “ Em, với tư cách cá nhân, rất vui tham dự chương trình đầy ý nghĩa.”
Lúc 3 giờ chiều, MC Nam Lộc thông báo thu được khoảng $100,000 tiền mặt.
Lối vào của ÐNHCOA có khoảng 30 gian hàng của các hội đoàn tham dự trưng bày các sản phẩm hay dịch vụ.
Nhạc sĩ Trúc Hồ, tổng giám đốc đài truyền hình SBTN, một cơ quan truyền thông thường xuyên yểm trợ đại nhạc hội từ trước tới nay, chia sẻ: “Khó nhọc mấy chúng tôi cũng phải làm vì đồng hương ủng hộ.”
Cựu Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn: “Chúng tôi ngưỡng mộ mọi đóng góp chân tình của mọi giới để cứu trợ." (Hình: Người Việt)
Chương trình văn nghệ được trực tiếp truyền hình trên đài SBTN đi khắp Hoa Kỳ, Canada và Úc, và đài SET 57.3, đi khắp miền Nam California.
Lực lượng nghệ sĩ rất phong phú gồm khoảng 60 ca nghệ sĩ của Trung Tâm Asia, và các MC quen thuộc khác như Diệu Quyên, Dương Nguyệt Ánh, Kim Nhung, Minh Phượng, Mộng Lan, và Thùy Dương. Ngoài ra có biệt đoàn văn nghệ Lam Sơn và câu lạc bộ liên trường Quảng Ðà. Ngoài ra, đại nhạc hội năm nay còn có sự tham dự của một số ca sĩ thuộc Trung Tâm Thúy Nga, như Thế Sơn, Trần Thái Hòa...
Ðại nhạc hội cũng có khoảng 30 gian hàng của các hội đoàn tham dự trưng bày các sản phẩm hay dịch vụ. (Hình: Người Việt)
Âm thanh do Việt Anh - Premier Production; các ban nhạc Trúc Sinh, The Moon Flower, Lê Huy với Phượng Hoàng.
Ðại nhạc hội cũng có chương trình đấu giá một số hình ảnh của nhiếp ảnh gia Ngọc Hạnh để góp thêm tài chánh cho việc gây quỹ.
Ban tổ chức kêu gọi đồng hương tiếp tục gởi chi phiếu yểm trợ thương phế binh VNCH trong những ngày tới.
Khi gởi, xin đề: ÐNH Cám Ơn Anh kỳ 7, và gởi về một trong ba địa chỉ:
-Ban Tổ Chức, PO Box 21040, San Jose, CA 95151.
-Ở Nam California, gởi về đài SBTN, PO Box 127, Garden Grove, CA 92842; hoặc Hội H.O. Cứu Trợ TPB & QP VNCH, PO Box 25554, Santa Ana, CA 92799.
–-
Liên lạc tác giả: LinhNguyen@nguoi-viet.com
Post by khieulong » Thu Aug 01, 2013 6:39 am
Dấu chân người lính Pháo Thủ MX
Chiến tranh đã kéo dài đến thế hệ cuả chúng tôi với một quê hương điêu linh và đổ nát, những người đi trước vẫn còn miệt mài và bây giờ thì đến lượt chúng tôi. Chiến tranh đã đi vào đến thành phố, Sài Gòn đã có những đêm tiếng đại bác vang vọng về rất gần, người dân Sài Gòn cũng đã một phần nào biết đến chiến tranh, một cuộc chiến dai dẳng chưa biết bao giờ mới chấm dứt.
Trường Hạ Sĩ Quan nung chí người trai, Đồng Đế đêm ngày nghe sóng vỗ. Tôi vào quân trường Đồng Đế một buổi chiều khi hoàng hôn vừa tắt, vũ đình trường được bao bọc xung quanh bằng những hàng thông rì rào bởi những luồng gió thổi từ ngoài biển vào, phía sau quân trường, trên đỉnh núi, tượng người lính mầu trắng đứng trong tư thế thao diễn nổi bật trong dẫy núi chập chùng mầu xanh thẫm nổi tiếng với hai câu thơ:
Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh.
Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu, máu chưa đổ nhưng mồ hôi thì hầu như lúc nào cũng đẫm chiếc áo trận. Đồng Đế có một bãi huấn luyện về chiến thuật cạnh bờ biển rất đẹp đó là bãi Tiên, không biết ai đặt tên nhưng tiên đâu chẳng thấy chỉ thấy những cán bộ huấn luyện dữ như những hung thần: nhất Sử nhì Vinh tam Hùng tứ Cảnh ,bốn vị sĩ quan huấn luyện viên này có những lối phạt rất là văn nghệ, thơ mộng nhưng chết người như:
Tình ca người đi biển: Cả đại đội khóa sinh dàn hàng ngang súng giơ cao khỏi đầu lội xuống biển cho đến khi nào ngập đầu.
Hái hoa rừng cho em: Một tiếng còi thổi cả đại đội chạy từ dưới chân đồi chạy lên đỉnh rồi một tiếng còi chạy xuống trong tay mỗi người phải cầm một cành hoa nhưng không được rụng cánh.
Những đêm đi ứng chiến ở cầu Xóm Bóng, Ba Làng nghe sóng vỗ rì rào, trời sáng tinh mơ thấp thoáng những bóng con thuyền trở về với đầy ắp cá chuồn. Câu lạc bộ cuả tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng có người con gái cố tình quên không tính tiền cho những chàng khóa sinh với ánh mắt đầy trìu mến như cảm nhận rằng thương người chiến binh. Những ngày cuối tuần đi phép người cán bộ đứng ngay cổng hỏi khóa sinh rằng từ doanh trại tiểu đoàn khóa sinh (bảng tên của mỗi tiểu đoàn khác nhau) ra đến cổng quân trường có bao nhiêu gốc thông ở hai bên đường?.
Rồi 6 tháng quân trường cũng trôi qua, chàng thư sinh bây giờ trở thảnh một người chiến binh dạn dày phong sương bỏ lại sau lưng Đồng Đế với những ngày gian khổ nhưng đầy kỷ niệm.
Thành phố miền thuỳ dương cát trắng vẫn níu chân tôi, rời Đồng Đế tôi qua trường pháo binh ở Dục Mỹ để học thêm về ngành chuyên môn. Trường pháo binh nằm cạnh trung tâm huấn luyện Biệt Động Quân nổi tiếng với chương trình huấn luyện rừng núi sình lầy, thời gian học tại trường pháo binh thật là nhàn hạ, chỉ trừ những lúc khảo hạch về chuyên môn, những chiều cuối tuần có xe cuả trường chở ra thành phố Nha Trang dạo phố nhưng riêng tôi cũng chẳng thấy xa lạ gì bởi mới vừa rời Đồng Đế, quần áo lúc nào cũng ủi hồ thẳng nếp, sách vở trên tay, đi học ngoài bãi đều có xe chở cho nên chúng tôi thường gọi đùa với nhau bọn mình là "lính hoàng gia". Có một kỷ niệm tôi không bao giờ quên đó là những chiều cuối tuần hết tiền ra Nha Trang cả bọn luà dê đực và dê cái cuả ông trung tá già Lê Huy Nghiêu chỉ huy phó vào sam (nơi ngủ cuả khoá sinh) đóng hết cưả lại cho chúng làm tình, sáng thứ hai sau buổi chào cờ tại vũ đình trường những tên tham dự trò chơi đó bị đứng phạt dưới chân cột cờ và trong đó có tôi. Câu lạc bộ số một có cô Ngân xinh đẹp si tình một chàng sĩ quan căn bản pháo binh khoá 2/68, đến ngày mãn khoá chàng phải lẩn trốn (đây là lời cuả sĩ quan pháo binh Phan Kim Bổng khoá 2/68/TĐ kể lại cho tôi ).
Sau khi tốt nghiệp, tôi về phục vụ tại một đơn vị pháo binh và làm việc trong trung tâm hành quân cuả Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, công việc cũng nhàn hạ, ngoài giờ trực tôi thường hay lang thang đường phố Sài Gòn, những chiều cuối tuần vẫn nhộn nhịp mặc dù dấu tích đổ nát cuả chiến tranh còn đó. Thỉnh thoảng có những thằng bạn học cũ aó hoa rừng mũ đỏ, mũ nâu trở về thành phố kể lại những trận đánh mà chúng nó tham dự. Ôi, đời lính nhiều gian nguy nhưng cũng đầy hào hùng và thời gian ngắn sau đó tôi tình nguyện sang pháo binh Thủy Quân Lục Chiến, cũng kể từ đó dấu chân người lính bắt đầu đi khắp nẻo đường đất nước.
Tôi theo đơn vị hành quân tại vùng Kiến Hòa, thị xã Trúc Giang với những hàng dừa rợp bóng hai bên đường, những cô gái thị xã e ấp trong chiếc aó bà ba đơn sơ và giản dị khiến tôi chợt nhớ đến hai câu thơ của một người bạn học cũ trong nhóm thi văn đoàn sông Hậu:
Tôi thương chiếc áo bà ba,
Tôi thương thị xã mang tà áo em.
Qua bắc Hàm Luông là Mỹ Lòng, tại chợ Mỹ Lòng có một loại rượu đế màu vàng óng uống muốn cháy cổ họng nhưng rất ngon, có lần bọn tôi năm đứa đã ngất ngưởng từ đó để về đến vị trí pháo đội đóng tại Đồng Gò, có những buổi chiều ngồi bên cạnh con lộ nhìn những cánh đồng bao la bát ngát tôi thấy đất nước mình đẹp quá, nếu không có chiến tranh thì quả là tuyệt vời với bức tranh đồng quê. đứa trẻ mục đồng trên mình trâu lững thững đi về trong khói lam chiều, nhưng cảnh thanh bình ấy vẫn còn xa tầm tay với cuả những người nông dân hiền hòa và chất phác.
Được một thời gian thì đơn vị di chuyển xuống Giồng Trôm, quê hương cuả ông già Ba Tri đầy huyền thoại, chợ Giồng Trôm nằm bên cạnh chi khu có những buổi trưa Hè trong vọng gác người lính nghĩa quân ôm súng ngồi uể oải, bóng dáng của những người lính mũ xanh, áo rằn ri xuất hiện làm cho khu chợ trở nên sôi động, thấp thoáng đâu đó một vài anh lính ngồi trò truyện với những ánh mắt đầy trìu mến cuả cô thôn nữ. Người lính Việt Nam Cộng Hoà là thế đó, họ chiến đấu thật can đảm khi đối diện cùng quân thù nhưng cũng rất lãng mạn trong tình yêu, thời gian đóng quân tại đây quá ngắn ngủi cho nên mọi người cũng nuối tiếc mảnh đất đầy hiền hoà này, ngày chuyển quân rồi cũng đến và cuộc chia ly nào cũng đầy nước mắt nhưng cuộc chia tay cuả một người lính trong khẩu đội cuả tôi với người con gái Giồng Trôm thì vĩnh biệt bởi sau đó người chiến binh này đã nằm xuống tại mặt trận Quảng Trị vào muà Hè đỏ lửa năm 1972.
Đồn 23 nằm cạnh quốc lộ số 4 thuộc tỉnh Định Tường là căn cứ cuả một trung đoàn bộ binh thuộc Sư Đoàn 7 bị đặc công VC tấn công đêm qua. Khi chúng tôi đến thì những đám cháy vẫn còn và xác người nằm la liệt. Ôi! đau thương nào cho bằng một cảnh tượng đầy xác chết của những đàn bà và trẻ thơ vô tội, một người lính bộ binh nước mắt lưng tròng ngồi ôm xác vợ con mình. Chiến tranh thì sẽ có thiệt hại nhưng đây là sự khát máu, bạo tàn vô lương tâm của con người cộng sản, trái lại người lính Việt Nam Cộng Hòa lúc nào cũng sẵn sàng bảo vệ sinh mạng cuả người dân điều đó đã nói lên tính nhân bản và chính nghĩa cuả người lính VNCH và tính độc ác, bạo tàn, khát máu cuả Cộng Sản.
Từ đồn 23 theo quốc lộ số 4 chạy xuống đến ngã ba Cái Bè, quẹo trái là vào chợ Cái Bè nằm dọc theo con sông chảy ra cầu Thông Lưu, gần chợ có một căn nhà ngói màu đỏ thỉnh thoảng theo chuyến xe tiếp tế cuả pháo đội tôi ghé vào thăm một ông già, ngồi nhâm nhi cùng ông ly rượu đế và nghe ông kể chuyện đời xưa. Trước ngày chuyển quân, tôi đến chào từ giã ông, nắm tay tôi giọng run run ông nói:
_Thằng cháu đi mạnh giỏi nếu có dịp đi ngang qua đây nhớ ghé thăm "Qua"
Ôi! tiếng "Qua" cuả một ông già miền Nam sao mà thân thiết quá! Phải chăng miền Nam với ruộng luá phì nhiêu, thẳng cánh cò bay, tôm cá đầy đồng đời sống dễ dàng nên tính tình người miền Nam cũng cởi mở và chân tình, miền Nam với những trăng sáng đêm thanh tiếng giã gạo xen lẫn tiếng hò cảnh thanh bình, thịnh trị cuả thưở xa xưa. Nhưng rồi chiến tranh đã đưa tôi đi đến những vùng đất xa lạ khác, tôi không còn có dịp ghé về chốn cũ để thăm ông nhưng hình ảnh cuả ông vẫn mãi mãi trong tôi.
Đơn vị nằm chờ lệnh hành quân tại Bắc Mỹ Thuận, những người lính độc thân lại được dịp tỏ tình với những người đẹp bến phà, dòng sông Cửu Long đục nước phù sa lững lờ trôi kéo theo những đám lục bình, chiếc phà chở xe cộ, hành khách sang bên Vĩnh Long như con thoi, tâm hồn tôi chợt nhớ về miền sông Hậu, Cần Thơ nơi tôi đã có vài năm học ở đó. Thành phố có bến Ninh Kiều, những đêm trời sáng trăng tôi thường hay ra ngồi ghế đá nằm cạnh con sông để nhìn sang bên kia là Xóm Chài với con đò đưa khách sang sông dưới ánh trăng lấp lánh hay những buổi nghỉ học cùng với đám bạn bè chèo xuồng qua bên kia cồn để hái trái cây, khung trời Tây Đô với những con đường đầy kỷ niệm.
Kampuchia, một nước nghèo nàn và xác xơ mặc dù chiến tranh mới chỉ thấp thoáng ở một vài nơi gần biên giới Việt Nam, những chiếc tàu vận tải trung hạng cuả quân vận đổ chúng tôi xuống một vùng đất thoai thoải một cù lao nhỏ trồng toàn bắp, xa xa vài căn nhà thưa thớt như những nhà sàn cuả người Thượng trên vùng Cao Nguyên. Cứ 3 ngày, từng đoàn tầu quân vận chở lương thực và đạn dược đến tiếp tế cho chúng tôi.
Con sông trước mặt đục ngầu, thỉnh thoảng có những xác người không đầu theo dòng nước, và được biết đó là những xác cuả người Việt Nam. Những ngày rảnh rỗi một số anh em chúng tôi cũng đi sâu vào làng dân, họ cũng hiền hoà như các dân tộc khác nhưng không hiểu tại sao lại có mối thù truyền kiếp giữa hai dân tộc. Sau 2 tháng ở xứ người, đơn vị tôi đuợc lệnh di chuyển về Châu Đốc và trở về hậu cứ tại Rừng Cấm Thủ Đức. Một buổi tiệc liên hoan đã được tổ chức và đặc biệt hơn nữa là đến màn vũ sexy anh em binh sĩ la ó ồn ào nhưng vị tiểu đoàn trưởng cuả chúng tôi đứng ở một góc cuối hội trường chỉ mỉm cười với ánh mắt thật bao dung, ông hiểu rồi mai đây trong cuộc hành quân sắp tới có còn đầy đủ khuôn mặt như hôm nay? Bởi vì: “xưa nay chinh chiến mấy ai trở về!”. Xin cám ơn lòng nhân hậu cuả người anh cả chúng tôi Tr/tá Trần Thiện Hiệu.
Sau cuộc hành quân Kampuchia lần thứ hai, đơn vị lại chuẩn bị cho cuộc hành quân sắp tới, ngoài quân trang, quân dụng chúng tôi còn được cấp phát thêm áo trấn thủ, tôi đoán sẽ đi hành quân ở vùng Cao Nguyên, nhưng không biết chỗ nào? Bởi vì theo lệnh cấp trên trong phạm vi cuả khẩu đội, tôi kiểm soát lại tình trạng khẩu đại bác, dụng cụ và nhân viên khẩu đội, thời gian chuẩn bị hành quân cũng đã gần đến, tôi muốn trở về thành phố trước khi đơn vị lên đường.
Đêm Sài Gòn vẫn như mọi đêm khác, thành phố rực ánh đèn mầu, tiếng nhạc văng vẳng từ những vũ trường, phòng trà, người dân thành phố vẫn thản nhiên ăn chơi trong khi cuộc chiến mỗi ngày một khốc liệt! Ngồi trong quán cà phê với thằng bạn đêm cuối của Sài Gòn trước khi lao vào vùng lửa đạn, lòng tôi thoáng chút bồi hồi bởi vì không biết có còn được trở lại thành phố này nữa hay không? “Còn đây đêm cuối này, đàn ai réo rắc nhạc lòng chia ly”, tôi chưa có một bóng hồng cho đời, chỉ có một thằng bạn thân chia tay đêm nay, nhưng cũng cảm thấy yên lòng cho kẻ ra đi, mai đây phương trời xa xôi ấy, có kẻ ra đi sẽ quay về?
Chiếc phi cơ C-130 cuả không lực Hoa Kỳ đổ chúng tôi xuống phi trường Ái Tử với những luồng gió thổi thật buốt giá. Phi trường nằm cạnh quốc lộ số 1, chung quanh là bãi cát trắng hoang vu không một mái nhà, không biết ngày xưa người mẹ già đã từ đâu đến để ngồi trên chiếc cầu Ái Tử này khóc nhớ thương con? Nước dưới chân cầu ngập ngừng trôi như muốn niú lại những giọt nước mắt cuả người mẹ già Ái Tử cuả thưở xa xưa. Màn đêm buông xuống, chiếc lều poncho không ngăn được gió lạnh, trong đêm trường không tiếng ru Hời năm xưa mà chỉ nghe tiếng gió thổi vi vu lạnh lẽo, lần đầu tiên trong đời tôi mới biết được cơn lạnh cuả miền Trung.
Trời mờ sáng pháo đội được lệnh di chuyển lên Đông Hà một thị xã của vùng giới tuyến, “đi dăm phút đã về chốn cũ”, khu buôn bán chỉ quanh quẩn với vài con đường, một nhà ga hoang tàn, sân ga cô đơn vắng bóng con tàu kể từ khi cuộc chiến gia tăng. Tôi nhớ về căn ga nhỏ nằm cô đơn giữa đường từ Nha Trang đến Ninh Hòa trong một truyện ngắn cuả Thanh Nam "Buồn Ga Nhỏ", nhưng dù sao căn ga đó vẫn còn có niềm hạnh phúc với những con tàu đến và đi.
Ngã ba Đông Hà nếu chạy thẳng lên hướng bắc cuả quốc lộ 1 thì sẽ đến Gio Linh, còn quẹo trái là quốc lộ số 9 chạy đến biên giới Việt-Lào. Đường đi khúc khủyu quanh co, một bên là vách núi, một bên là vực sâu và nhiều lần phải đi ngang qua những con suối gập ghềnh thật gian nan vất vả, khẩu đại bác 105 ly nhiều lúc muốn chực lật nhào, quần áo mặt mũi bám đầy bụi đỏ, không biết những cô sơn nữ cuả nhạc sĩ Trần Hoàn như thế nào chứ chúng tôi toàn thân hầu như được rắc lên một lớp bột mầu đỏ. Vách núi cheo leo, vực sâu núi thẳm, đoàn quân di chuyển với tiếng động cơ cuả xe phá sự yên tĩnh cuả dãy Trường Sơn hoang vu, pháo đội dừng quân bên cạnh một con suối, mọi người thay phiên nhau đi tắm rửa rồi nghỉ qua đêm.
Đêm ngủ bià rừng, trên bầu trời đen tối lấp lánh vì sao, tiếng xào xạc cuả lá, thèm ly cà phê, điếu thuốc, nhớ mông lung về mái ấm gia đình, cha mẹ, anh em, nhớ đến lời dặn dò cuả người cha già, người mẹ ngồi trước bàn thờ tụng kinh cầu mong cho thằng con mình trở về bình yên, bạn bè đã có vài thằng ra đi khi tuổi còn thanh xuân, Minh "õng ẹo" TĐ/21BĐQ ra trường 26 ngày thì tử trận, Đồng"nhà quê" SĐ25 chết khi mối tình đầu được đúng tròn năm, Kính "con" Nhảy Dù cố gắng về, nhưng về nghiã trang! Ôi, chinh chiến đã mang đi nhiều bạn bè, ngựa hồng chưa mỏi vó nhưng đã chết trong rừng già, cánh đồng hoang vu.
Khe Sanh, nơi được cả thế giới biết đến khi một trung đoàn TQLC Mỹ và Tiểu Đoàn 37/BĐQ lừng danh cuả QLVNCH bị nhiều sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt bao vây, bây giờ lại một lần nữa được nhắc nhớ đến khi những đoàn quân của tinh nhuệ cuả QLVNCH, Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Sư Đoàn Nhẩy Dù, Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân đặt bản doanh trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 tiến sang phần đất Hạ Lào. Những hố bom do B52 thả xuống chung quanh chân đồi đầy rẫy, đã có một lần vào đêm tối trời tôi đã bị rơi xuống hố, khó khăn lắm mới leo lên được. Pháo đội trong tình trạng nằm trừ bị tại Khe Sanh và bắn yểm trợ cho quân bạn, hàng ngày những loạt hoả tiễn 122 ly cuả Cộng quân rớt vào vị trí pháo đội nhưng không sự thiệt hại nào đáng kể.
Từng đoàn trực thăng tải thương mang những thương binh trở về từ mặt trận, bệnh viện dã chiến đầy nghẹt không còn chỗ chứa, bên cạnh đó là những bao đựng xác người nằm đầy ngang hông bệnh viện! Trận chiến mỗi ngày một khốc liệt, bởi vậy số thương vong cũng lên cao, thằng bạn thoát về được mừng tủi kể lại trận đánh và cũng có những thằng bạn của Đồng Đế năm xưa đang im lìm nằm trong bao xác! “Ngày mai trong đám tử sĩ ấy, có kẻ đi về nơi nghiã trang”! Cuộc hành quân chấm dứt, tôi mất đi một số bạn bè và người quen, kỷ vật cho người còn sống là ngôi mộ vừa được lấp kín trong nghiã trang, em hỏi anh bao giờ trở lại? Câu trả lời chỉ là đau thương và mất mát.
Động Ông Đô mây mù dày đặc, thỉnh thoảng có những ngày bầu trời trong sáng, xa xa dãy Trường Sơn chập chùng xanh thẫm khiến tôi nhớ về nơi quân trường cũ có tượng người lính và Dục Mỹ với những ngày kéo súng đi thực tập ở xạ trường có đồi núi chập chùng vây quanh, con suối Dục Mỹ róc rách chảy len lỏi qua những tảng đá làn nước lung linh lấp lánh dưới ánh mặt trời, người tình cũ khi chợt nhớ về cố nhân đã thầm mong một lần nào đó cho gặp lại nhau, riêng tôi, mong một ngày nào đó cho tôi trở về miền thuỳ dương cát trắng năm xưa để nghe sóng vỗ Đồng Đế, tiếng suối chảy cuả Dục Mỹ và ngồi lặng yên trên bãi cát trắng với những con sóng nhấp nhô ngoài khơi cuả Nha Trang ngày về, mười hai tháng anh đi, đi mãi chưa biết bao giờ trở về.
Đỉnh núi Sarge cao ngất, nhìn xuống là quốc lộ số 9 chạy ngoằn ngoèo như con rắn, Cộng quân bắt đầu pháo kích dồn dập vào vị trí pháo đội để gây trở ngại việc yểm trợ cho quân bạn đang bị chúng tấn công bên căn cứ Bá Hổ. Khẩu đại bác của tôi bị 3 trái đạn súng cối 82 khiến hai bánh súng trúng mảnh đạn bị xẹp, chúng pháo tới tấp, vừa chạy vào hầm thêm 2 trái nổ tung trên nóc hầm, tôi không bị thương nhưng hai tai thì ù đi, nghe tiếng rên la của một người lính, tôi nhào đến xem, máu chảy ướt đẫm trên vai, tôi báo cáo lên đài tác xạ cho y tá xuống băng bó cho người lính bị thương và cũng cho biết tình trạng khẩu đại bác, thằng bạn làm trưởng đài tác xạ hỏi một câu thật ngớ ngẩn:
_Súng còn có thể tác xạ được không?
Tôi nổi nóng văng tục, chán quá! Sau cuộc pháo kích cuả Cộng quân, kiểm điểm lại quân số thì có 3 binh sĩ bị thương, không có thương vong nhưng khẩu đội cuả tôi thì bị nặng nhất bởi ngay tầm bắn cuả chúng và ngay ngày hôm sau một toán quân cụ được trực thăng bốc lên núi để sửa chữa lại khẩu đại bác và gỡ một trái đạn không nổ còn nằm dưới gầm súng.
Năm tôi mười tám tuổi đang đi học thì xảy ra trận tổng công kích cuả Việt cộng vào thủ đô Sài Gòn và một số tỉnh lỵ khác của VNCH vào dịp tết Mậu Thân năm 1968. Lệnh tổng động viên được ban hành, vào tuổi cuả một thanh niên mới lớn chưa hiểu rõ về cuộc đời chỉ biết sách vở và bạn bè nay bỗng dưng đi vào quân đội tôi cảm thấy lòng mình đầy hoang mang và bỡ ngỡ .
Chiến tranh đã kéo dài đến thế hệ cuả chúng tôi với một quê hương điêu linh và đổ nát, những người đi trước vẫn còn miệt mài và bây giờ thì đến lượt chúng tôi. Chiến tranh đã đi vào đến thành phố, Sài Gòn đã có những đêm tiếng đại bác vang vọng về rất gần, người dân Sài Gòn cũng đã một phần nào biết đến chiến tranh, một cuộc chiến dai dẳng chưa biết bao giờ mới chấm dứt.
Trường Hạ Sĩ Quan nung chí người trai, Đồng Đế đêm ngày nghe sóng vỗ. Tôi vào quân trường Đồng Đế một buổi chiều khi hoàng hôn vừa tắt, vũ đình trường được bao bọc xung quanh bằng những hàng thông rì rào bởi những luồng gió thổi từ ngoài biển vào, phía sau quân trường, trên đỉnh núi, tượng người lính mầu trắng đứng trong tư thế thao diễn nổi bật trong dẫy núi chập chùng mầu xanh thẫm nổi tiếng với hai câu thơ:
Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh.
Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu, máu chưa đổ nhưng mồ hôi thì hầu như lúc nào cũng đẫm chiếc áo trận. Đồng Đế có một bãi huấn luyện về chiến thuật cạnh bờ biển rất đẹp đó là bãi Tiên, không biết ai đặt tên nhưng tiên đâu chẳng thấy chỉ thấy những cán bộ huấn luyện dữ như những hung thần: nhất Sử nhì Vinh tam Hùng tứ Cảnh ,bốn vị sĩ quan huấn luyện viên này có những lối phạt rất là văn nghệ, thơ mộng nhưng chết người như:
Tình ca người đi biển: Cả đại đội khóa sinh dàn hàng ngang súng giơ cao khỏi đầu lội xuống biển cho đến khi nào ngập đầu.
Hái hoa rừng cho em: Một tiếng còi thổi cả đại đội chạy từ dưới chân đồi chạy lên đỉnh rồi một tiếng còi chạy xuống trong tay mỗi người phải cầm một cành hoa nhưng không được rụng cánh.
Những đêm đi ứng chiến ở cầu Xóm Bóng, Ba Làng nghe sóng vỗ rì rào, trời sáng tinh mơ thấp thoáng những bóng con thuyền trở về với đầy ắp cá chuồn. Câu lạc bộ cuả tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng có người con gái cố tình quên không tính tiền cho những chàng khóa sinh với ánh mắt đầy trìu mến như cảm nhận rằng thương người chiến binh. Những ngày cuối tuần đi phép người cán bộ đứng ngay cổng hỏi khóa sinh rằng từ doanh trại tiểu đoàn khóa sinh (bảng tên của mỗi tiểu đoàn khác nhau) ra đến cổng quân trường có bao nhiêu gốc thông ở hai bên đường?.
Rồi 6 tháng quân trường cũng trôi qua, chàng thư sinh bây giờ trở thảnh một người chiến binh dạn dày phong sương bỏ lại sau lưng Đồng Đế với những ngày gian khổ nhưng đầy kỷ niệm.
Thành phố miền thuỳ dương cát trắng vẫn níu chân tôi, rời Đồng Đế tôi qua trường pháo binh ở Dục Mỹ để học thêm về ngành chuyên môn. Trường pháo binh nằm cạnh trung tâm huấn luyện Biệt Động Quân nổi tiếng với chương trình huấn luyện rừng núi sình lầy, thời gian học tại trường pháo binh thật là nhàn hạ, chỉ trừ những lúc khảo hạch về chuyên môn, những chiều cuối tuần có xe cuả trường chở ra thành phố Nha Trang dạo phố nhưng riêng tôi cũng chẳng thấy xa lạ gì bởi mới vừa rời Đồng Đế, quần áo lúc nào cũng ủi hồ thẳng nếp, sách vở trên tay, đi học ngoài bãi đều có xe chở cho nên chúng tôi thường gọi đùa với nhau bọn mình là "lính hoàng gia". Có một kỷ niệm tôi không bao giờ quên đó là những chiều cuối tuần hết tiền ra Nha Trang cả bọn luà dê đực và dê cái cuả ông trung tá già Lê Huy Nghiêu chỉ huy phó vào sam (nơi ngủ cuả khoá sinh) đóng hết cưả lại cho chúng làm tình, sáng thứ hai sau buổi chào cờ tại vũ đình trường những tên tham dự trò chơi đó bị đứng phạt dưới chân cột cờ và trong đó có tôi. Câu lạc bộ số một có cô Ngân xinh đẹp si tình một chàng sĩ quan căn bản pháo binh khoá 2/68, đến ngày mãn khoá chàng phải lẩn trốn (đây là lời cuả sĩ quan pháo binh Phan Kim Bổng khoá 2/68/TĐ kể lại cho tôi ).
Sau khi tốt nghiệp, tôi về phục vụ tại một đơn vị pháo binh và làm việc trong trung tâm hành quân cuả Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, công việc cũng nhàn hạ, ngoài giờ trực tôi thường hay lang thang đường phố Sài Gòn, những chiều cuối tuần vẫn nhộn nhịp mặc dù dấu tích đổ nát cuả chiến tranh còn đó. Thỉnh thoảng có những thằng bạn học cũ aó hoa rừng mũ đỏ, mũ nâu trở về thành phố kể lại những trận đánh mà chúng nó tham dự. Ôi, đời lính nhiều gian nguy nhưng cũng đầy hào hùng và thời gian ngắn sau đó tôi tình nguyện sang pháo binh Thủy Quân Lục Chiến, cũng kể từ đó dấu chân người lính bắt đầu đi khắp nẻo đường đất nước.
Tôi theo đơn vị hành quân tại vùng Kiến Hòa, thị xã Trúc Giang với những hàng dừa rợp bóng hai bên đường, những cô gái thị xã e ấp trong chiếc aó bà ba đơn sơ và giản dị khiến tôi chợt nhớ đến hai câu thơ của một người bạn học cũ trong nhóm thi văn đoàn sông Hậu:
Tôi thương chiếc áo bà ba,
Tôi thương thị xã mang tà áo em.
Qua bắc Hàm Luông là Mỹ Lòng, tại chợ Mỹ Lòng có một loại rượu đế màu vàng óng uống muốn cháy cổ họng nhưng rất ngon, có lần bọn tôi năm đứa đã ngất ngưởng từ đó để về đến vị trí pháo đội đóng tại Đồng Gò, có những buổi chiều ngồi bên cạnh con lộ nhìn những cánh đồng bao la bát ngát tôi thấy đất nước mình đẹp quá, nếu không có chiến tranh thì quả là tuyệt vời với bức tranh đồng quê. đứa trẻ mục đồng trên mình trâu lững thững đi về trong khói lam chiều, nhưng cảnh thanh bình ấy vẫn còn xa tầm tay với cuả những người nông dân hiền hòa và chất phác.
Được một thời gian thì đơn vị di chuyển xuống Giồng Trôm, quê hương cuả ông già Ba Tri đầy huyền thoại, chợ Giồng Trôm nằm bên cạnh chi khu có những buổi trưa Hè trong vọng gác người lính nghĩa quân ôm súng ngồi uể oải, bóng dáng của những người lính mũ xanh, áo rằn ri xuất hiện làm cho khu chợ trở nên sôi động, thấp thoáng đâu đó một vài anh lính ngồi trò truyện với những ánh mắt đầy trìu mến cuả cô thôn nữ. Người lính Việt Nam Cộng Hoà là thế đó, họ chiến đấu thật can đảm khi đối diện cùng quân thù nhưng cũng rất lãng mạn trong tình yêu, thời gian đóng quân tại đây quá ngắn ngủi cho nên mọi người cũng nuối tiếc mảnh đất đầy hiền hoà này, ngày chuyển quân rồi cũng đến và cuộc chia ly nào cũng đầy nước mắt nhưng cuộc chia tay cuả một người lính trong khẩu đội cuả tôi với người con gái Giồng Trôm thì vĩnh biệt bởi sau đó người chiến binh này đã nằm xuống tại mặt trận Quảng Trị vào muà Hè đỏ lửa năm 1972.
Đồn 23 nằm cạnh quốc lộ số 4 thuộc tỉnh Định Tường là căn cứ cuả một trung đoàn bộ binh thuộc Sư Đoàn 7 bị đặc công VC tấn công đêm qua. Khi chúng tôi đến thì những đám cháy vẫn còn và xác người nằm la liệt. Ôi! đau thương nào cho bằng một cảnh tượng đầy xác chết của những đàn bà và trẻ thơ vô tội, một người lính bộ binh nước mắt lưng tròng ngồi ôm xác vợ con mình. Chiến tranh thì sẽ có thiệt hại nhưng đây là sự khát máu, bạo tàn vô lương tâm của con người cộng sản, trái lại người lính Việt Nam Cộng Hòa lúc nào cũng sẵn sàng bảo vệ sinh mạng cuả người dân điều đó đã nói lên tính nhân bản và chính nghĩa cuả người lính VNCH và tính độc ác, bạo tàn, khát máu cuả Cộng Sản.
Từ đồn 23 theo quốc lộ số 4 chạy xuống đến ngã ba Cái Bè, quẹo trái là vào chợ Cái Bè nằm dọc theo con sông chảy ra cầu Thông Lưu, gần chợ có một căn nhà ngói màu đỏ thỉnh thoảng theo chuyến xe tiếp tế cuả pháo đội tôi ghé vào thăm một ông già, ngồi nhâm nhi cùng ông ly rượu đế và nghe ông kể chuyện đời xưa. Trước ngày chuyển quân, tôi đến chào từ giã ông, nắm tay tôi giọng run run ông nói:
_Thằng cháu đi mạnh giỏi nếu có dịp đi ngang qua đây nhớ ghé thăm "Qua"
Ôi! tiếng "Qua" cuả một ông già miền Nam sao mà thân thiết quá! Phải chăng miền Nam với ruộng luá phì nhiêu, thẳng cánh cò bay, tôm cá đầy đồng đời sống dễ dàng nên tính tình người miền Nam cũng cởi mở và chân tình, miền Nam với những trăng sáng đêm thanh tiếng giã gạo xen lẫn tiếng hò cảnh thanh bình, thịnh trị cuả thưở xa xưa. Nhưng rồi chiến tranh đã đưa tôi đi đến những vùng đất xa lạ khác, tôi không còn có dịp ghé về chốn cũ để thăm ông nhưng hình ảnh cuả ông vẫn mãi mãi trong tôi.
Đơn vị nằm chờ lệnh hành quân tại Bắc Mỹ Thuận, những người lính độc thân lại được dịp tỏ tình với những người đẹp bến phà, dòng sông Cửu Long đục nước phù sa lững lờ trôi kéo theo những đám lục bình, chiếc phà chở xe cộ, hành khách sang bên Vĩnh Long như con thoi, tâm hồn tôi chợt nhớ về miền sông Hậu, Cần Thơ nơi tôi đã có vài năm học ở đó. Thành phố có bến Ninh Kiều, những đêm trời sáng trăng tôi thường hay ra ngồi ghế đá nằm cạnh con sông để nhìn sang bên kia là Xóm Chài với con đò đưa khách sang sông dưới ánh trăng lấp lánh hay những buổi nghỉ học cùng với đám bạn bè chèo xuồng qua bên kia cồn để hái trái cây, khung trời Tây Đô với những con đường đầy kỷ niệm.
Kampuchia, một nước nghèo nàn và xác xơ mặc dù chiến tranh mới chỉ thấp thoáng ở một vài nơi gần biên giới Việt Nam, những chiếc tàu vận tải trung hạng cuả quân vận đổ chúng tôi xuống một vùng đất thoai thoải một cù lao nhỏ trồng toàn bắp, xa xa vài căn nhà thưa thớt như những nhà sàn cuả người Thượng trên vùng Cao Nguyên. Cứ 3 ngày, từng đoàn tầu quân vận chở lương thực và đạn dược đến tiếp tế cho chúng tôi.
Con sông trước mặt đục ngầu, thỉnh thoảng có những xác người không đầu theo dòng nước, và được biết đó là những xác cuả người Việt Nam. Những ngày rảnh rỗi một số anh em chúng tôi cũng đi sâu vào làng dân, họ cũng hiền hoà như các dân tộc khác nhưng không hiểu tại sao lại có mối thù truyền kiếp giữa hai dân tộc. Sau 2 tháng ở xứ người, đơn vị tôi đuợc lệnh di chuyển về Châu Đốc và trở về hậu cứ tại Rừng Cấm Thủ Đức. Một buổi tiệc liên hoan đã được tổ chức và đặc biệt hơn nữa là đến màn vũ sexy anh em binh sĩ la ó ồn ào nhưng vị tiểu đoàn trưởng cuả chúng tôi đứng ở một góc cuối hội trường chỉ mỉm cười với ánh mắt thật bao dung, ông hiểu rồi mai đây trong cuộc hành quân sắp tới có còn đầy đủ khuôn mặt như hôm nay? Bởi vì: “xưa nay chinh chiến mấy ai trở về!”. Xin cám ơn lòng nhân hậu cuả người anh cả chúng tôi Tr/tá Trần Thiện Hiệu.
Sau cuộc hành quân Kampuchia lần thứ hai, đơn vị lại chuẩn bị cho cuộc hành quân sắp tới, ngoài quân trang, quân dụng chúng tôi còn được cấp phát thêm áo trấn thủ, tôi đoán sẽ đi hành quân ở vùng Cao Nguyên, nhưng không biết chỗ nào? Bởi vì theo lệnh cấp trên trong phạm vi cuả khẩu đội, tôi kiểm soát lại tình trạng khẩu đại bác, dụng cụ và nhân viên khẩu đội, thời gian chuẩn bị hành quân cũng đã gần đến, tôi muốn trở về thành phố trước khi đơn vị lên đường.
Đêm Sài Gòn vẫn như mọi đêm khác, thành phố rực ánh đèn mầu, tiếng nhạc văng vẳng từ những vũ trường, phòng trà, người dân thành phố vẫn thản nhiên ăn chơi trong khi cuộc chiến mỗi ngày một khốc liệt! Ngồi trong quán cà phê với thằng bạn đêm cuối của Sài Gòn trước khi lao vào vùng lửa đạn, lòng tôi thoáng chút bồi hồi bởi vì không biết có còn được trở lại thành phố này nữa hay không? “Còn đây đêm cuối này, đàn ai réo rắc nhạc lòng chia ly”, tôi chưa có một bóng hồng cho đời, chỉ có một thằng bạn thân chia tay đêm nay, nhưng cũng cảm thấy yên lòng cho kẻ ra đi, mai đây phương trời xa xôi ấy, có kẻ ra đi sẽ quay về?
Chiếc phi cơ C-130 cuả không lực Hoa Kỳ đổ chúng tôi xuống phi trường Ái Tử với những luồng gió thổi thật buốt giá. Phi trường nằm cạnh quốc lộ số 1, chung quanh là bãi cát trắng hoang vu không một mái nhà, không biết ngày xưa người mẹ già đã từ đâu đến để ngồi trên chiếc cầu Ái Tử này khóc nhớ thương con? Nước dưới chân cầu ngập ngừng trôi như muốn niú lại những giọt nước mắt cuả người mẹ già Ái Tử cuả thưở xa xưa. Màn đêm buông xuống, chiếc lều poncho không ngăn được gió lạnh, trong đêm trường không tiếng ru Hời năm xưa mà chỉ nghe tiếng gió thổi vi vu lạnh lẽo, lần đầu tiên trong đời tôi mới biết được cơn lạnh cuả miền Trung.
Trời mờ sáng pháo đội được lệnh di chuyển lên Đông Hà một thị xã của vùng giới tuyến, “đi dăm phút đã về chốn cũ”, khu buôn bán chỉ quanh quẩn với vài con đường, một nhà ga hoang tàn, sân ga cô đơn vắng bóng con tàu kể từ khi cuộc chiến gia tăng. Tôi nhớ về căn ga nhỏ nằm cô đơn giữa đường từ Nha Trang đến Ninh Hòa trong một truyện ngắn cuả Thanh Nam "Buồn Ga Nhỏ", nhưng dù sao căn ga đó vẫn còn có niềm hạnh phúc với những con tàu đến và đi.
Ngã ba Đông Hà nếu chạy thẳng lên hướng bắc cuả quốc lộ 1 thì sẽ đến Gio Linh, còn quẹo trái là quốc lộ số 9 chạy đến biên giới Việt-Lào. Đường đi khúc khủyu quanh co, một bên là vách núi, một bên là vực sâu và nhiều lần phải đi ngang qua những con suối gập ghềnh thật gian nan vất vả, khẩu đại bác 105 ly nhiều lúc muốn chực lật nhào, quần áo mặt mũi bám đầy bụi đỏ, không biết những cô sơn nữ cuả nhạc sĩ Trần Hoàn như thế nào chứ chúng tôi toàn thân hầu như được rắc lên một lớp bột mầu đỏ. Vách núi cheo leo, vực sâu núi thẳm, đoàn quân di chuyển với tiếng động cơ cuả xe phá sự yên tĩnh cuả dãy Trường Sơn hoang vu, pháo đội dừng quân bên cạnh một con suối, mọi người thay phiên nhau đi tắm rửa rồi nghỉ qua đêm.
Đêm ngủ bià rừng, trên bầu trời đen tối lấp lánh vì sao, tiếng xào xạc cuả lá, thèm ly cà phê, điếu thuốc, nhớ mông lung về mái ấm gia đình, cha mẹ, anh em, nhớ đến lời dặn dò cuả người cha già, người mẹ ngồi trước bàn thờ tụng kinh cầu mong cho thằng con mình trở về bình yên, bạn bè đã có vài thằng ra đi khi tuổi còn thanh xuân, Minh "õng ẹo" TĐ/21BĐQ ra trường 26 ngày thì tử trận, Đồng"nhà quê" SĐ25 chết khi mối tình đầu được đúng tròn năm, Kính "con" Nhảy Dù cố gắng về, nhưng về nghiã trang! Ôi, chinh chiến đã mang đi nhiều bạn bè, ngựa hồng chưa mỏi vó nhưng đã chết trong rừng già, cánh đồng hoang vu.
Khe Sanh, nơi được cả thế giới biết đến khi một trung đoàn TQLC Mỹ và Tiểu Đoàn 37/BĐQ lừng danh cuả QLVNCH bị nhiều sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt bao vây, bây giờ lại một lần nữa được nhắc nhớ đến khi những đoàn quân của tinh nhuệ cuả QLVNCH, Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Sư Đoàn Nhẩy Dù, Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân đặt bản doanh trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 tiến sang phần đất Hạ Lào. Những hố bom do B52 thả xuống chung quanh chân đồi đầy rẫy, đã có một lần vào đêm tối trời tôi đã bị rơi xuống hố, khó khăn lắm mới leo lên được. Pháo đội trong tình trạng nằm trừ bị tại Khe Sanh và bắn yểm trợ cho quân bạn, hàng ngày những loạt hoả tiễn 122 ly cuả Cộng quân rớt vào vị trí pháo đội nhưng không sự thiệt hại nào đáng kể.
Từng đoàn trực thăng tải thương mang những thương binh trở về từ mặt trận, bệnh viện dã chiến đầy nghẹt không còn chỗ chứa, bên cạnh đó là những bao đựng xác người nằm đầy ngang hông bệnh viện! Trận chiến mỗi ngày một khốc liệt, bởi vậy số thương vong cũng lên cao, thằng bạn thoát về được mừng tủi kể lại trận đánh và cũng có những thằng bạn của Đồng Đế năm xưa đang im lìm nằm trong bao xác! “Ngày mai trong đám tử sĩ ấy, có kẻ đi về nơi nghiã trang”! Cuộc hành quân chấm dứt, tôi mất đi một số bạn bè và người quen, kỷ vật cho người còn sống là ngôi mộ vừa được lấp kín trong nghiã trang, em hỏi anh bao giờ trở lại? Câu trả lời chỉ là đau thương và mất mát.
Động Ông Đô mây mù dày đặc, thỉnh thoảng có những ngày bầu trời trong sáng, xa xa dãy Trường Sơn chập chùng xanh thẫm khiến tôi nhớ về nơi quân trường cũ có tượng người lính và Dục Mỹ với những ngày kéo súng đi thực tập ở xạ trường có đồi núi chập chùng vây quanh, con suối Dục Mỹ róc rách chảy len lỏi qua những tảng đá làn nước lung linh lấp lánh dưới ánh mặt trời, người tình cũ khi chợt nhớ về cố nhân đã thầm mong một lần nào đó cho gặp lại nhau, riêng tôi, mong một ngày nào đó cho tôi trở về miền thuỳ dương cát trắng năm xưa để nghe sóng vỗ Đồng Đế, tiếng suối chảy cuả Dục Mỹ và ngồi lặng yên trên bãi cát trắng với những con sóng nhấp nhô ngoài khơi cuả Nha Trang ngày về, mười hai tháng anh đi, đi mãi chưa biết bao giờ trở về.
Đỉnh núi Sarge cao ngất, nhìn xuống là quốc lộ số 9 chạy ngoằn ngoèo như con rắn, Cộng quân bắt đầu pháo kích dồn dập vào vị trí pháo đội để gây trở ngại việc yểm trợ cho quân bạn đang bị chúng tấn công bên căn cứ Bá Hổ. Khẩu đại bác của tôi bị 3 trái đạn súng cối 82 khiến hai bánh súng trúng mảnh đạn bị xẹp, chúng pháo tới tấp, vừa chạy vào hầm thêm 2 trái nổ tung trên nóc hầm, tôi không bị thương nhưng hai tai thì ù đi, nghe tiếng rên la của một người lính, tôi nhào đến xem, máu chảy ướt đẫm trên vai, tôi báo cáo lên đài tác xạ cho y tá xuống băng bó cho người lính bị thương và cũng cho biết tình trạng khẩu đại bác, thằng bạn làm trưởng đài tác xạ hỏi một câu thật ngớ ngẩn:
_Súng còn có thể tác xạ được không?
Tôi nổi nóng văng tục, chán quá! Sau cuộc pháo kích cuả Cộng quân, kiểm điểm lại quân số thì có 3 binh sĩ bị thương, không có thương vong nhưng khẩu đội cuả tôi thì bị nặng nhất bởi ngay tầm bắn cuả chúng và ngay ngày hôm sau một toán quân cụ được trực thăng bốc lên núi để sửa chữa lại khẩu đại bác và gỡ một trái đạn không nổ còn nằm dưới gầm súng.
Đầu mùa Xuân năm 1972, pháo đội đóng trong căn cứ C1 Gio Linh, Gio Linh nghèo nàn, xơ xác, cứ mỗi buổi sáng từng đoàn người kể cả trẻ em dẫn nhau lên núi, và vào khoảng xế bóng ra về với những bó củi trên lưng, thấy vậy tôi xin phép cấp trên những ống đựng đạn được quấn bằng giấy dầu không thấm nước thay vì đem đổ đi thì nên cho họ, được sự chấp thuận nên cứ mỗi lần khui đạn những ống đựng đạn đó tôi nói với người tài xế cuả khẩu đội mang ra cho họ. Chiều ba mươi Tết cuả miền điạ đầu giới tuyến, mặt trận tạm yên, hưởng không khí muà Xuân với đồng đội trong khi những người dân Gio Linh vẫn từng đoàn người lầm lũi vào dẫy Trường Sơn để kiếm sống. Ôi, quê hương Việt Nam sao có những nơi lầm than đói khổ như thế này!
Quảng Trị muà Hè đỏ lưả bắt đầu khi những sư đoàn Cộng quân Bắc Việt cùng với xe tăng đại pháo vượt sông Bến Hải ồ ạt tấn công miền địa đầu giới tuyến. Những căn cứ tiền đồn lần lượt thất thủ! Trong thời gian ấy, đơn vị chúng tôi đang đóng trong căn cứ cuả một trung đoàn bộ binh, vị trí pháo đội bị Cộng quân pháo tới tấp nhưng chúng tôi vẫn cố gắng bắn yểm trợ cho những đơn vị bạn, bất ngờ khẩu đội được lệnh chuyển hướng bắn và mục tiêu là cầu Đông Hà. Cầu Đông Hà trong tầm mắt nhìn nên tôi thấy khói và bụi mù tung trời sau đó được lệnh kéo súng về vị trí mới. Trên đường đi, dọc theo quốc lộ số I, từng đoàn người dân gồng gánh nối đuôi nhau chạy về Huế. Từ căn cứ Hoà Mỹ, phaó đội yểm trợ suốt đêm cho một đơn vị bạn trong căn cứ Phượng Hoàng đang bị Cộng quân tấn công bằng xe tăng và đại pháo.
Vì áp lực cuả địch, chúng tôi về đóng tại cây số 17 (thời gian này Sư Đoàn Dù chưa ra tham chiến) là một căn cứ cũ cuả quân đội Mỹ và con sông Mỹ Chánh trở thành tuyến đầu cực Bắc cuả miền Nam. Vị Lữ Đoàn Trưởng của LĐ/369/TQLC, Đại Tá Phạm Văn Chung, đã chận đứng được sự tấn công cuả cộng quân tại con sông này. Cảnh hỗn loạn chấm dứt, trật tự đã được tái lập và sau đó cũng từ con sông Mỹ Chánh này Thuỷ Quân Lục Chiến Việt Nam đã làm nên lịch sử khi cắm lá quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ trên cổ thành Quảng Trị lừng danh trong quân sử. Hải Lăng, một đoạn đường dài hơn 10 cây số đầy xác người nằm trên mặt lộ và hai bên đường bởi cuộc phaó kích cuả giặc thù! Giới truyền thông Tây phương đâu rồi? Cô đào chiếu bóng Jane Fonda đâu rồi? Cả bọn mất dạng bởi cảnh tượng tàn sát khủng khiếp dã man trong loài người do những "người bạn" cuả đám phản chiến gây nên, đoạn đường này sau đó đã được một nữ ký giả Việt Nam gọi là:"Đại Lộ Kinh Hoàng" và người đó là nhà báo Trùng Dương .
Từ hương lộ 555, pháo đội tôi di chuyển đến đóng tại cầu Vân Trình, sau đó di chuyển qua đóng bên cạnh con sông Vĩnh Định để bắn yểm trợ cho các đơn vị TQLC đang tiến về thành phố Quảng Trị. Trận chiến mỗi ngày một gay go. Vào một buổi chiều khi trời vừa chập choạng tối, Cộng quân pháo trúng kho đạn cuả pháo đội, tiếng đạn nổ long trời cho đến gần nửa đêm mới dứt. Một số đồng bào đồng bào được giải thoát từ phiá Bắc chạy về hướng vị trí pháo đội, tất cả mọi người đã được anh em chúng tôi mang lương khô gạo xấy ra phân phát.
Dòng sông Vĩnh Định vẫn trôi chảy hiền hoà nhưng trận chiến thì mỗi ngày một đẫm máu, đoàn người lánh nạn vẫn mong mỏi chiến trận lắng dịu để họ trở về nơi quê cha, đất tổ cho dù trong cảnh hoang tàn và đổ nát,Việt Nam ơi! Hoà Bình ơi! người người đã trông đợi từ lâu và biết bao giờ đến.
Qua cầu Phong Điền, hướng lên phía Bắc, bên tay trái có một con đường mòn dẫn lên ngọn đồi nhỏ là nơi pháo đội tôi đóng quân, đang gióng hướng súng thì Cộng quân pháo kích tới tấp, người nhắm viên cuả khẩu đội bị một mảnh đạn đại bác 130 ly ghim vào đầu, óc văng tung toé! Tôi chạy đến xem, trên khuôn mặt cuả người nhân viên, bầy nhầy máu và óc, một bên mặt đã mất chỉ còn là một lỗ sâu hoắm, anh nằm xuống như một lần vào viễn du! Không phải như vậy, bởi vì anh đã chết, chết một cách thảm khốc cho cuộc chiến này, "ngọn đồi máu" đúng vậy, vì trước đó vài ngày một thằng bạn học của thời niên thiếu cũng đã chết tại ngọn đồi này. Cơn mưa bất chợt đổ xuống, những giọt mưa ướt đẫm trên mặt xen lẫn nước mắt để khóc thêm lần thứ hai cho hai người vừa nằm xuống trên cùng một địa điểm. Ở một phương trời xa xôi của đồng bằng sông Cửu Long, có một người vợ trẻ vừa trở thành goá phụ khi hình hài người chồng đang trở về trong "Hòm gỗ cài hoa".
Tôi trở về Sài Gòn với tấm giấy phép thưởng hành quân 7 ngày, bước lên thềm nhà, người mẹ già ngỡ ngàng nhìn con, thằng con lính vừa từ mặt trận trở về. Tin tức về chiến sự hàng ngày đã làm bà lo sợ, có lần một thằng bạn bị thương trước khi được chuyển về bệnh viện Lê Hữu Sanh, tôi có nhờ nó đến nhà để báo cho gia đình tôi biết là tôi vẫn bình yên, nó chống nạng khập khiễng đến gõ cửa, thấy bóng dáng người lính Mũ Xanh áo rằn ri, mẹ tôi ngất xỉu. Vài ngày ở Sài gòn, Sài gòn hoa lệ, Sài gòn muôn mầu vẫn sống trong cơn thác loạn trong khi đó thì trên những đèo cao hút gió, rừng sâu núi thẳm, từng giây phút trôi đi có những người lính vô danh âm thầm gục ngã rải rác trên khắp mảnh đất quê hương.
Cơn mưa Sài gòn bất chợt đổ xuống, tôi chui vào một quán cà phê trú mưa, tiếng hát của cô ca sĩ đang ca ngợi lính, không biết nàng hát cho lính loại nào? Một giấy tính tiền được đưa ra có tính thêm khoản tiền uỷ lạo chiến sĩ tiền tuyến, ôi sao quái đản thế này! Một thằng lính từ mặt trận trở về lại phải uỷ lạo tiền tuyến! Tôi nổi nóng thật sự, không phải cái khoản tiền uỷ lạo mà là lối làm ăn quái gở của ngành chiến tranh chính trị.
Tôi đến gõ cửa nhà bạn, mẹ bạn bước ra với ánh mắt thật buồn, im lặng không nói chỉ đưa mắt nhìn lên bàn thờ, áo hoa dù trong khung hình bán thân lung linh theo làn khói hương, bạn tôi đó! Một thời ngang dọc với những địa danh đẫm máu, bị thương ba lần không chết, mỗi lần gặp nhau trong cơn say nghêu ngao hát “anh không chết đâu em!” và bây giờ thì nó không còn để mà hát điệp khúc này nữa, thắp cho bạn nén nhang, khói nhang màu trắng đục bay tỏa lững lờ như hồn nó đang chập chờn trong nghiã trang có tượng người lính Thương Tiếc. Bạn tôi đó đang say ngủ yên và bạn nó những người còn sống vẫn miệt mài với cuộc chiến đầy đau thương và thảm khốc này.
Giọt nắng soi ngang thềm nhà, người mẹ già yên lặng ngồi đó đã lâu, đã bao nhiêu lần như vậy cứ mỗi lần thằng con trở lại chiến trường bà đều ngồi âm thầm khấn nguyện. Bóng dáng người lính Mũ Xanh áo rằn ri khuất lần sau cánh cổng, người mẹ già vẫn còn đó, bà mong mỏi bước chân bình yên cuả con mình sẽ theo dấu lối về, cuộc chiến này sẽ có ngày tàn nhưng rồi có biết bao người đi và mấy người trở lại?.
Viết để tưởng nhớ đến những đồng đội, bạn bè của tôi đã nằm xuống cho một cuộc chiến đầy máu lửa đau thương này.
PT MX Phạm Thành Nhân
TĐ.3/PBTQLC
Đầu mùa Xuân năm 1972, pháo đội đóng trong căn cứ C1 Gio Linh, Gio Linh nghèo nàn, xơ xác, cứ mỗi buổi sáng từng đoàn người kể cả trẻ em dẫn nhau lên núi, và vào khoảng xế bóng ra về với những bó củi trên lưng, thấy vậy tôi xin phép cấp trên những ống đựng đạn được quấn bằng giấy dầu không thấm nước thay vì đem đổ đi thì nên cho họ, được sự chấp thuận nên cứ mỗi lần khui đạn những ống đựng đạn đó tôi nói với người tài xế cuả khẩu đội mang ra cho họ. Chiều ba mươi Tết cuả miền điạ đầu giới tuyến, mặt trận tạm yên, hưởng không khí muà Xuân với đồng đội trong khi những người dân Gio Linh vẫn từng đoàn người lầm lũi vào dẫy Trường Sơn để kiếm sống. Ôi, quê hương Việt Nam sao có những nơi lầm than đói khổ như thế này!
Quảng Trị muà Hè đỏ lưả bắt đầu khi những sư đoàn Cộng quân Bắc Việt cùng với xe tăng đại pháo vượt sông Bến Hải ồ ạt tấn công miền địa đầu giới tuyến. Những căn cứ tiền đồn lần lượt thất thủ! Trong thời gian ấy, đơn vị chúng tôi đang đóng trong căn cứ cuả một trung đoàn bộ binh, vị trí pháo đội bị Cộng quân pháo tới tấp nhưng chúng tôi vẫn cố gắng bắn yểm trợ cho những đơn vị bạn, bất ngờ khẩu đội được lệnh chuyển hướng bắn và mục tiêu là cầu Đông Hà. Cầu Đông Hà trong tầm mắt nhìn nên tôi thấy khói và bụi mù tung trời sau đó được lệnh kéo súng về vị trí mới. Trên đường đi, dọc theo quốc lộ số I, từng đoàn người dân gồng gánh nối đuôi nhau chạy về Huế. Từ căn cứ Hoà Mỹ, phaó đội yểm trợ suốt đêm cho một đơn vị bạn trong căn cứ Phượng Hoàng đang bị Cộng quân tấn công bằng xe tăng và đại pháo.
Vì áp lực cuả địch, chúng tôi về đóng tại cây số 17 (thời gian này Sư Đoàn Dù chưa ra tham chiến) là một căn cứ cũ cuả quân đội Mỹ và con sông Mỹ Chánh trở thành tuyến đầu cực Bắc cuả miền Nam. Vị Lữ Đoàn Trưởng của LĐ/369/TQLC, Đại Tá Phạm Văn Chung, đã chận đứng được sự tấn công cuả cộng quân tại con sông này. Cảnh hỗn loạn chấm dứt, trật tự đã được tái lập và sau đó cũng từ con sông Mỹ Chánh này Thuỷ Quân Lục Chiến Việt Nam đã làm nên lịch sử khi cắm lá quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ trên cổ thành Quảng Trị lừng danh trong quân sử. Hải Lăng, một đoạn đường dài hơn 10 cây số đầy xác người nằm trên mặt lộ và hai bên đường bởi cuộc phaó kích cuả giặc thù! Giới truyền thông Tây phương đâu rồi? Cô đào chiếu bóng Jane Fonda đâu rồi? Cả bọn mất dạng bởi cảnh tượng tàn sát khủng khiếp dã man trong loài người do những "người bạn" cuả đám phản chiến gây nên, đoạn đường này sau đó đã được một nữ ký giả Việt Nam gọi là:"Đại Lộ Kinh Hoàng" và người đó là nhà báo Trùng Dương .
Từ hương lộ 555, pháo đội tôi di chuyển đến đóng tại cầu Vân Trình, sau đó di chuyển qua đóng bên cạnh con sông Vĩnh Định để bắn yểm trợ cho các đơn vị TQLC đang tiến về thành phố Quảng Trị. Trận chiến mỗi ngày một gay go. Vào một buổi chiều khi trời vừa chập choạng tối, Cộng quân pháo trúng kho đạn cuả pháo đội, tiếng đạn nổ long trời cho đến gần nửa đêm mới dứt. Một số đồng bào đồng bào được giải thoát từ phiá Bắc chạy về hướng vị trí pháo đội, tất cả mọi người đã được anh em chúng tôi mang lương khô gạo xấy ra phân phát.
Dòng sông Vĩnh Định vẫn trôi chảy hiền hoà nhưng trận chiến thì mỗi ngày một đẫm máu, đoàn người lánh nạn vẫn mong mỏi chiến trận lắng dịu để họ trở về nơi quê cha, đất tổ cho dù trong cảnh hoang tàn và đổ nát,Việt Nam ơi! Hoà Bình ơi! người người đã trông đợi từ lâu và biết bao giờ đến.
Qua cầu Phong Điền, hướng lên phía Bắc, bên tay trái có một con đường mòn dẫn lên ngọn đồi nhỏ là nơi pháo đội tôi đóng quân, đang gióng hướng súng thì Cộng quân pháo kích tới tấp, người nhắm viên cuả khẩu đội bị một mảnh đạn đại bác 130 ly ghim vào đầu, óc văng tung toé! Tôi chạy đến xem, trên khuôn mặt cuả người nhân viên, bầy nhầy máu và óc, một bên mặt đã mất chỉ còn là một lỗ sâu hoắm, anh nằm xuống như một lần vào viễn du! Không phải như vậy, bởi vì anh đã chết, chết một cách thảm khốc cho cuộc chiến này, "ngọn đồi máu" đúng vậy, vì trước đó vài ngày một thằng bạn học của thời niên thiếu cũng đã chết tại ngọn đồi này. Cơn mưa bất chợt đổ xuống, những giọt mưa ướt đẫm trên mặt xen lẫn nước mắt để khóc thêm lần thứ hai cho hai người vừa nằm xuống trên cùng một địa điểm. Ở một phương trời xa xôi của đồng bằng sông Cửu Long, có một người vợ trẻ vừa trở thành goá phụ khi hình hài người chồng đang trở về trong "Hòm gỗ cài hoa".
Tôi trở về Sài Gòn với tấm giấy phép thưởng hành quân 7 ngày, bước lên thềm nhà, người mẹ già ngỡ ngàng nhìn con, thằng con lính vừa từ mặt trận trở về. Tin tức về chiến sự hàng ngày đã làm bà lo sợ, có lần một thằng bạn bị thương trước khi được chuyển về bệnh viện Lê Hữu Sanh, tôi có nhờ nó đến nhà để báo cho gia đình tôi biết là tôi vẫn bình yên, nó chống nạng khập khiễng đến gõ cửa, thấy bóng dáng người lính Mũ Xanh áo rằn ri, mẹ tôi ngất xỉu. Vài ngày ở Sài gòn, Sài gòn hoa lệ, Sài gòn muôn mầu vẫn sống trong cơn thác loạn trong khi đó thì trên những đèo cao hút gió, rừng sâu núi thẳm, từng giây phút trôi đi có những người lính vô danh âm thầm gục ngã rải rác trên khắp mảnh đất quê hương.
Cơn mưa Sài gòn bất chợt đổ xuống, tôi chui vào một quán cà phê trú mưa, tiếng hát của cô ca sĩ đang ca ngợi lính, không biết nàng hát cho lính loại nào? Một giấy tính tiền được đưa ra có tính thêm khoản tiền uỷ lạo chiến sĩ tiền tuyến, ôi sao quái đản thế này! Một thằng lính từ mặt trận trở về lại phải uỷ lạo tiền tuyến! Tôi nổi nóng thật sự, không phải cái khoản tiền uỷ lạo mà là lối làm ăn quái gở của ngành chiến tranh chính trị.
Tôi đến gõ cửa nhà bạn, mẹ bạn bước ra với ánh mắt thật buồn, im lặng không nói chỉ đưa mắt nhìn lên bàn thờ, áo hoa dù trong khung hình bán thân lung linh theo làn khói hương, bạn tôi đó! Một thời ngang dọc với những địa danh đẫm máu, bị thương ba lần không chết, mỗi lần gặp nhau trong cơn say nghêu ngao hát “anh không chết đâu em!” và bây giờ thì nó không còn để mà hát điệp khúc này nữa, thắp cho bạn nén nhang, khói nhang màu trắng đục bay tỏa lững lờ như hồn nó đang chập chờn trong nghiã trang có tượng người lính Thương Tiếc. Bạn tôi đó đang say ngủ yên và bạn nó những người còn sống vẫn miệt mài với cuộc chiến đầy đau thương và thảm khốc này.
Giọt nắng soi ngang thềm nhà, người mẹ già yên lặng ngồi đó đã lâu, đã bao nhiêu lần như vậy cứ mỗi lần thằng con trở lại chiến trường bà đều ngồi âm thầm khấn nguyện. Bóng dáng người lính Mũ Xanh áo rằn ri khuất lần sau cánh cổng, người mẹ già vẫn còn đó, bà mong mỏi bước chân bình yên cuả con mình sẽ theo dấu lối về, cuộc chiến này sẽ có ngày tàn nhưng rồi có biết bao người đi và mấy người trở lại?.
Viết để tưởng nhớ đến những đồng đội, bạn bè của tôi đã nằm xuống cho một cuộc chiến đầy máu lửa đau thương này.
PT MX Phạm Thành Nhân
TĐ.3/PBTQLC
- nguyenvsau
- Posts: 1082
- Joined: Thu Jul 08, 2010 11:25 pm
- Contact:
Post by nguyenvsau » Sun Aug 11, 2013 2:26 am
Mai
Năm 1969, Tiểu Đoàn tôi đang hành quân chung quanh Bến Lức thì được lệnh di chuyển về Đức Hòa, một quận nhỏ thuộc tỉnh Hậu Nghĩa, về Đức Hòa để bảo vệ Bộ Tư Lệnh SĐ25 đang đóng ở đây. Hậu Nghĩa có lẽ là một tỉnh nhỏ nhất của miền Nam, nguyên nó là 1 xã của Đức Hòa hay Đức Huệ gì đó, vì tính cách chiến lược, ông Ngô Đình Diệm lập nên tỉnh này.Rời khỏi Bến Lức với con sông Vàm Cỏ Đông lòng tôi bùi ngùi, nửa năm ở đây, thường các cuộc hành quân là ủi bãi cùng với Hải Quân , VC hai bên bờ như rươi, con sông chạy dài tới tận Tây Ninh, mỗi lần tầu đi, chúng phục 2 bên bờ bắn B40 như pháo bông, 4 ngày cuối cùng trước khi về Đức Hòa thì Thiếu Úy Hạnh, khóa 18 TĐ, Đại Đội phó của ĐĐ tôi hy sinh, tầu bị phục kích, khi bị bắn, tầu ủi bãi, Hạnh xua quân xông lên, vài phút sau tin báo Hạnh trúng đạn chết.
Tới Đức Hòa, TĐ được phân công phòng thủ quanh vòng đai ngoài của bộ chỉ huy SĐ, Đại Đội tôi được chỉ định đóng tại Bình Hữu, tung các điểm phục kích chặn những đường tiến sát địch có thể xâm nhập vào Bộ TL, Bình Hữu là một xã nhỏ, nằm trên đường đi lên Đức Huệ, con đường Bình Hữu nhỏ, ngắn, được 3,4 chục căn nhà, Ban Chỉ huy Đại Đội tối đóng quanh quẩn trong mấy ngôi nhà đó, các trung đội vừa có toán phục kích, vừa bảo vệ ĐĐ, thỉnh thoảng hành quân nhảy trực thăng, thường là nhẩy xuống mật khu Lý văn Mạnh hoặc xa hơn nơi biên giới Đức Huệ, Lý Văn Mạnh là một khu dinh điền thời TT Ngô Đình Diệm, nay bỏ hoang đã lâu, VC bám trụ ở đây, thỉnh thoảng tập trung tấn công các đồn bót của ĐPQ, NQ, chúng bám trụ nơi này để giữ đường giao liên từ Long An, qua Đức Huệ để tới Kampuchia.
Chiều hôm đó, sau cuộc hành quân tảo thanh về, thay quần áo xong thì Xuân, Trung Úy, bạn cùng khóa 21 VB, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 cùng TĐ đóng ở Bình Tả gần đó lái xe jeep qua, rủ đi uống cà phê, có cái quán nhỏ xế chỗ tôi đóng quân, bước vào, quán đã sẵn mấy anh Thiếu úy pilot trẻ lái trực thăng đang ốn ào, huyên thuyên, Xuân không kêu cà phê nữa, nó gọi bia nhậu với cá lóc nướng, mấy hôm sau tôi mới hiểu vì sao các anh chàng pilot trẻ này cứ lượn ra lượn vào ở cái quán cà phê này.
Cũng tội nghiệp bà chủ quán tên là Dì Năm, khoảng 50 tuổi, có tụi tôi trong quán, lính không dám vào, quán bị ế, cả mấy anh pilot thấy 2 ông Trung Úy trẻ, tác phong rõ ràng là dân tác chiến chứ không phải SQ của bộ Tư Lệnh, ngồi tì tì với bia thì chút sau cũng phú lỉnh, tôi gọi máy kêu 2 Trung đội trưởng của ĐĐ lên nhậu, lúc sau ngà ngà, nói chuyện với Xuân về Hạnh mới bỏ mình bên bờ Vàm Cỏ, tôi muốn khóc, ôm chai bia đứng dậy loạng quạng bước theo bước tango : đời tôi quân nhân, chút tình riêng gửi núi sông…đời lính, biết bao nhiêu lần say ? mà có phải chỉ có chút tình riêng gửi núi sông đâu, SQ/VB là gửi cả cuộc đời cho núi sông ấy chứ, như thằng Hạnh chẳng hạn, gửi cả cuộc đời cho núi sông khi còn quá trẻ, mới ngoài hai mươi chứ mấy, thế là xong hết. Trong lúc ngật ngưỡng ôm chai bia, tôi bắt gặp một cặp mắt đen láy nhìn tôi qua cái rèm cửa sổ thông với buồng trong, tôi khựng lại nhìn đôi mắt ấy, chiếc rèm khép vội lại, đôi mắt mất hút. Tôi lẩm bẩm : ê, nhìn trộm hả, rồi nhún vai :
em là gái trong song cửa
anh là mây bốn phương trời
anh theo cánh gió chơi vơi
em vẫn nằm trong nhung lụa
( Một mùa đông : Lưu trọng Lư )
đúng rồi, anh là mây bốn phương trời, vấn vương chi với những đôi mắt, nhất là mắt đàn bà con gái, tôi nói lớn hỏi Sơn : Ê Xuân, đàn bà con gái làm bận rộn mình quá hả, quẳng hết đi phải không mày, Xuân gục đầu ầm ừ: quẳng gì thì quẳng nó vẫn bám cứng chân mình như thường, quả thực thằng Sơn này vướng nhiều đàn bà quá, khi làm tới Quận trưởng, lính gác quận đường canh VC thì ít mà canh đàn bà thì nhiều, nhưng thôi nó cũng xứng đáng, bị thương 3,4 lần, bay mất một mắt thành độc nhỡn như Moshe Dayan, tôi liền cánh, liền cành với nó từ ngày ra trường tới mãi 1973 khi nó làm QT, mà nào có dứt ra được đâu, thỉnh thoảng nó vẫn kêu lên SĐ xin TĐ tôi biệt phái bảo vệ Quận nó để 2 thằng bù khú.
Trở lại với Bình Hữu, Đức Hòa, cũng một buổi chiều rảnh rỗi Sơn lại kiếm tôi rủ uống cà phê, lần này thì uống cà phê thực sự, tôi và Sơn không phải là những người nát rượu, thỉnh thoảng nổi hứng hay buồn quá mới uống, khoảng chiều, một cô gái nhỏ nhắn, mặc áo dài trắng nữ sinh, loại áo dài mà tôi thích nhất trong các kiểu áo dài, người con gái ôm cặp trước ngực, bước vô quán, nàng chào hai đứa tôi, tay vuốt mái tóc xõa trên trán, ánh mắt lướt nhanh qua nhưng tôi cũng kịp ngờ ngợ : đôi mắt này, phải rồi, đôi mắt tối nọ nhìn trộm mình đây mà! Cô gái bước vô trong còn ngoái lại nhìn tôi, môi mím lại như muốn cười nhưng không dám cười, tôi cũng toét miệng ra gật đầu, cô ta dáng dấp nhỏ bé, có lẽ bé thật, tóc ngang vai, khoảng 16,17 chứ mấy, với tôi thế là quá bé dù tôi cũng chưa già là bao, mới hơn 20 chứ bao nhiêu, ôi thôi, mà lẩn thẩn chi vậy, chuyện gì nữa đây, chắc cô ta thấy tôi tối đó ngồ ngộ hoặc chưa bao giờ thấy một người say ôm chai bia loạng quạng nhẩy ?
Xuân đá đá chân tôi : ôi chao phí của, mày ở đây, địa phương mày mà không quen cô bé này thật là phí của, tao ra lệnh cho mày, 10 ngày nữa mày phải ôm cô bé trong tay, thôi, ôm thì vội quá, mày phải nắm được tay cô ta và nói nàng hãy bảo mấy anh lái trực thăng kia đi chỗ khác chơi, mày không làm được thì không đáng là Sĩ quan Võ Bị, rõ chưa.
Rồi tôi cũng biết, nàng tên Mai, một mẹ một con, ông bố có bà hai đi đâu mất tiêu, bà Năm, mẹ của Mai mở quán cà phê, lợi tức cũng đủ cho hai mẹ con đắp đỗi qua ngày, hình như tôi cũng đang bị điều tra, thằng tà loọc nói dì Năm hỏi về trung Úy nhiều lắm, tôi cũng không để ý, lời Xuân khích bác tôi cũng không để ý, những cuộc hành quân liên miên làm không có thì giờ nhiều, ưu tiên lo lắng an toàn cho đơn vị, mỗi lần chạm địch có người chết, tim tôi cứ thắt lại khi thấy những người vợ lính lên tìm chồng, vành khăn tang trắng, đứa bé còn bồng trên tay. SĐ quần tụi tôi như cái mền rách vì an ninh của BTL, từ ngày về đây, chỉ có đụng chạm nho nhỏ, SĐ chưa một lần bị pháo kích.
Thường mỗi tối, khu vực ĐĐ tôi phụ trách đường phố giới nghiêm, chẳng cần thông báo, tối là mọi người ở trong nhà, Ban CH/ ĐĐ đóng xéo với quán cà phê Dì Năm, một tối, tôi lững thững sang đó uống cà phê, chẳng có mục đích gì với lời nói của Xuân, Mai ngồi nơi quầy, nàng cầm cuốn tập trong tay, tôi gọi ly cà phê sữa đá rồi hỏi :
- Mai siêng thế này chắc học giỏi lắm hả?
Lần đầu tiên đối diện cô ta và cũng lần đầu tiên trò chuyện mà tôi nói tỉnh bơ làm như đã biết nhau lâu lắm. Mai tròn mắt nhìn khi thấy tôi gọi đúng phóc tên nàng :
- Đâu có, quá dốt là đằng khác, sao Tr/U biết tên Mai ?
- Ồ, tôi biết Mai từ buổi tối Mai nhìn tôi qua cái cửa sổ kia kìa, tối đó chắc tôi say làm Mai buồn cười lắm hả ?
- Ôm chai bia mà cứ tưởng là ôm cô nào thì không biết có thể gọi là buồn cười hay không !
Hay, cô này biết nói chuyện đây dù tuổi còn nhỏ, mới 17 và đang học ở Trung Học Quận, có lẽ Tam, Tứ gì đó.
Cũng một tối khác sang chơi, Mai hỏi tôi giải giúp một bài toán phương trình bậc 2, tôi hỏi về toán, cô ta chẳng biết gì cả, dốt toán quá, tôi giảng cho Mai – giảng mấy lần mà vẫn chưa hiểu, tôi buột miệng:
- Dốt quá thế này
Mai sửng cồ:
- Thì Mai đã nói Mai dốt rồi mà, chê người ta mai mốt qua uống cà phê em bỏ muối vô cho xem
- Có bỏ muối cũng không giỏi toán hơn được, chịu khó làm bài tập nhiều vào, và muốn thật giỏi hơn, phải hối lộ thầy.
- Tr/U muốn Mai hối lộ gì ?
- Hối lộ gì sẽ cho biết sau nhưng trước hết không được gọi tôi là Tr/U nữa, cô có phải là lính của tôi đâu.
Hai tuần sau, Xuân hỏi :
- Tình hình đến đâu rồi, đã nắm tay cô ta chưa, sao mày ụt quá vậy.
Tôi trả lời:
- Tao chưa nắm được tay nàng nhưng nàng nắm tay tao thì sao ?
Xuân trợn mắt :
- Thật không ? vậy là mày vượt quá chỉ tiêu rồi còn gì, sao có chuyện ngược đời vậy ?
Chẳng có gì là ngược đời và sao lại không thật, chỉ tình cờ thôi, tối đó khi giải cùng Mai bài toán xong, tôi về, chợt Mai nắm tay tôi :
- Em còn một câu toán nữa quên hỏi anh.
Cái nắm tay đó rất tự nhiên, rất thật thà của cô gái mới lớn nhưng không hiểu sao tôi lại không nhận ra cái thật thà đó, tôi nghịch ngợm biến sự thật thà đó thành điều có ý nghĩa hơn, tôi im lặng không nói gì nhìn Mai, sự im lặng của tôi làm Mai bối rối, chút sau nhận ra, nàng rụt tay về nhưng tôi giữ chặt lại, được một lúc, bàn tay không còn có vẻ muốn rút về nữa, hình như nó muốn được nằm yên như vậy, tay Mai mềm đi trong tay tôi và tôi biết trái tim nàng cũng đang mềm đi, 17 tuổi rồi, không lẽ không biết rung động là gì sao, còn tôi thì tỉnh táo như con sói nhìn con cừu, hai tay tôi nắm tay Mai, giờ mới thấy được tay Mai run run, sau này có nhiều bàn tay cũng run run trong tay tôi nhưng những bàn tay đó có sự xúc động khác, không tinh khiết như cô học trò nhỏ này, vậy là vấn vương rồi ư.
Một lần hành quân về, nhẩy trực thăng, người đầy sình, tắm rửa xong thì lính nói Dì năm kêu Tr/ U sang ăn cháo, vừa đói vừa lạnh, có tô cháo gà nóng, tỉnh cả người, vừa ăn tôi vừa nghĩ : vậy là sâu đậm rồi đây. Mai dốt toán nhưng lại giỏi văn chương, cứ tưởng cô học trò nhỏ ở cái quận đèo heo hút gió này thì biết gì nhưng Mai hiểu khá nhiều về thơ văn, cách nói chuyện cũng khéo léo, một lần nói về ý nghĩ này, Mai lại sửng cồ : đèo heo hút gió cái gì, từ đây về SG có 1, 2 tiếng đồng hồ chứ mấy, không được coi thường người ta ạ. Một tối, sau khi dậy Mai học, lúc về, Mai chợt đứng phắt dậy ôm lấy tôi, ô hay, tối nay sao bạo thế này, nàng thì thầm :
- Hôm nay em được 18 tuổi rồi, mừng sinh nhật em đi
Cách bày tỏ này là tự nhiên hay sắp đặt trước ? thây kệ, tôi ôm Mai đặt lên trán nàng nụ hôn :
- Mừng em được 18, với anh, em vẫn là cô học trò bé nhỏ, còn anh vẫn là mây bốn phương trời, quen lính khổ lắm nghe em, để ý đến anh hồi nào vậy ?
- Thì cái tối anh uống bia say đó, anh và ông Tr/U Sơn nhắc về một người nào mới chết, em thấy anh buồn, rồi anh ôm chai bia nghêu ngao hát, trông anh lúc ấy thật tội nghiệp, hôm nay em 18, đến tuổi đi bầu rồi, có quyền công dân rồi, không được coi em như con nít nữa, mọi lần nói chuyện với anh, em thấy anh như chẳng để ý gì lời em cả, lúc nào cũng coi em như con nít, này anh, có phải ông Nguyên Sa yêu bà ấy lúc bà mới 13 phải không, anh trễ hơn ông ta 5 năm rồi đấy.
- Vậy ư, 13 nhỏ quá, em biết Phạm Thiên Thư chứ, thuộc thơ như em hẳn phải biết ông này, tà áo trắng mỗi chiều em học về, anh đứng nhìn lơ mơ thấy em là cô Hoàng thị Ngọ: em tan trường về, anh theo Ngọ về…Mai ngắt ngang : anh mà theo ai, anh chẳng theo mà cũng làm chết người ta đây này.
Thế ra tôi đóng ở đây cũng khá lâu mà không biết, Mai đã được18 rồi đấy. Mấy ngày sau sinh nhật Mai, ĐĐ tôi được lệnh chuyển lên Đức Huệ, hành quân chung với một ĐĐ của SĐ 9 Mỹ, hôm lên xe di chuyển, tôi thấy ánh mắt ấy khuất sau cánh cửa quán cà phê nhìn theo, chắc có ngấn lệ, đã nói rồi mà, anh là mây bốn phương trời, yêu lính khổ lắm, u uẩn chiều ly biệt như thơ Quang Dũng. Tới Đức Huệ, BCH/ ĐĐ tôi đóng chung với BCH/ĐĐ Mỹ trong nhà máy đường Hiệp Hòa, nhà máy đồ sộ to lớn cao sừng sững, đã lâu nhà máy không còn hoạt động vì chiến tranh, máy móc còn nhưng cũng không biết ai đã gỡ đi một ít. Thời gian phối hợp ở đây, tôi mới thấy cách tổ chức của quân đội Mỹ quá lớn, Tiểu Đoàn Trưởng có trực thăng riêng, ĐĐT Mỹ thì như TĐT của VN, họ cho các Trung đội hành quân riêng lẻ, ĐĐT ngồi một chỗ chỉ huy thành ra tôi cho các Trung đội phối hợp với Mỹ, không phải lội theo, một lần chạm địch, tôi dẫn Trung đội trừ bị vượt sông Vàm Cỏ tiếp ứng, đi chung với Mỹ nên họ gọi pháo binh, Cobra, các phản lực rất nhanh, còn ta hành quân pháo binh thì có nhanh nhưng các phương tiện yểm trợ khác thì chậm, có người bị thương, họ kêu Medevac có ngay. Đức Huệ gần biên giới Kampuchia nên VC nơi đây khá nhiều nhưng với phương tiện dồi dào của Mỹ, chúng không thể tập trung đông vì pháo binh Mỹ bắn suốt ngày, hơi có chút nghi ngờ là máy bay bay lên dội bom ngay, một lần hành quân mở rộng lục soát, ban chỉ huy ĐĐ tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc vì mìn bẫy, người lính mang máy đá phải sợi dây căng mìn của VC, may mà chỉ có hạt nổ kích hỏa, còn trái 155 nằm chình ình như con heo dấu dưới lớp cỏ, trái pháo bị lép, nếu không, mấy thầy trò chỉ còn cách hốt xương vô poncho.
Một hôm đang ngồi nghiên cứu bản đồ khu vực hành quân ngày mai thì viên ĐĐT Mỹ kêu tôi:
- Ra đây tao chỉ cho coi cái này
hắn dẫn tôi xuống dưới gần cái giếng, chỉ vào một người lính của ĐĐ tôi đang loay hoay cạo lông cái lỗ tai heo, lỗ tai còn bám đầy đất cáu bẩn, lông lá tua tủa. Hắn nói :
- Lính mày ăn cái gì mà dơ quá vậy, bộ C Ration không đủ cho tụi mày à ?
Tôi mắc cở đỏ mặt, cái lỗ tai heo đó là do chính tôi sáng nay nói với anh chàng đầu bếp nấu ăn là ra chợ Đức Huệ kiếm cái lỗ tai heo, tao thèm chấm mắm nêm với chuối chát quá, cũng may, chiều đó trong chuyến tiếp tế, Mai ghé hậu cứ gửi cho tôi một cạp lồng cháo gà, cái lỗ tai heo, tôi cho người lính nấu ăn, tôi thấy họ bàn tán với nhau đi mua xị đế. Gần 1 tháng hành quân chung với ĐĐ Mỹ, ĐĐ tôi trở nên “giầu có “ lựu đạn, claymore, khói mầu…dư giả.
Sau một tháng ở đây, ĐĐ trở về mái nhà xưa, TĐ tôi vẫn còn nhiệm vụ bảo vệ BTL/SĐ, vì thông thuộc địa thế, tôi vẫn trông giữ Bình Hữu, đôi mắt đen như hạt nhãn đón tôi trong reo cười, trong tôi cũng có bâng khuâng rộn ràng , chiều đó lại có cháo gà. Tối tối tôi thường sang Mai, nàng không còn hỏi tôi nhiều về toán nữa, chuyện giờ là những nhớ nhung của những ngày xa cách, khi nói chuyện, Mai thường hay nắm tay tôi, tôi hỏi:
- Nắm tay anh hoài không chán ư ?
- Không, em vẫn có linh cảm rồi anh sẽ bỏ đây đi xa, giữ được anh lúc nào hay lúc đó, không anh lại bỏ đi
- Thì anh vẫn nói với em rồi mà, anh là mây bốn phương trời, anh theo cánh gió chơi vơi, lính tác chiến chứ có phải lính Phủ Tổng Thống đâu.
- Không, đừng làm mây bốn phương trời, hãy là những áng mây che phủ ngọn núi gì mà anh hay kể em nghe đó, ừ, đúng rồi, ngọn núi Lâm Viên nơi hồi xưa anh học ở Đà Lạt, những ngày mùa đông, mây tụ trên đỉnh núi, anh hãy như những áng mây đó, tung bay bốn phương trời làm chi, ở đây với em, tình yêu làm người ta ích kỷ, em biết ước muốn của em mong manh như những sợi tơ trời, tơ trời chỉ giữ được con ruồi, con muỗi, làm sao giữ được chân anh, em sợ ngày đó quá anh ạ .
Có níu kéo cũng không thể được đâu, đã nói rồi mà, thôi chào em, chào người con gái bé bỏng tội nghiệp, anh cũng đâu có muốn bỏ đi, nhưng lính mà em. Ít lâu sau, TĐ tôi di chuyển lên Tây Ninh, lần ra đi này tôi nghĩ khó có dịp quay lại Đức Hòa vì nơi sắp đến là nơi mịt mù khói lửa, không có những tối yên bình để chúng ta ngồi bên nhau, tình hình chiến sự biên giới có vẻ sôi động, sau thời gian dài Sihanouk cho VC sử dụng đất Kampuchia sát Việt Nam làm nơi chứa quân và vật dụng chiến tranh để tấn công miền Nam, trước đây, khi truy kích VC mà lỡ xâm phạm biên giới, Sihanouk làm rùm beng, đưa vấn đề ra LHQ, giờ ông ta bị lật đổ, Lonol lên làm Thủ Tướng, Lonol thỏa thuận với chính phủ VNCH cho ta mở cuộc hành quân biên giới đánh đuổi VC, SĐ 25 là một thành phần của cuộc hành quân này cùng với Nhẩy Dù, TQLC, BĐQ…Quân Đoàn 3 dưới sự chỉ huy của vị Tướng lừng danh Đỗ Cao Trí, người Mỹ gọi ông là Patton của Mỹ, Patton là tướng Thiết Giáp mà Mỹ đã gọi ông ta là America’s greatest General, Tướng Trí không phải là Tướng Thiết Giáp nhưng trong các cuộc hành quân ở Kampuchia, ông sử dụng TG rất tài tình trong nhị thức Bộ Binh Thiết Giáp, cuộc chiến ở Kampuchia đã tạo nên những vị Thiết Đoàn Trưởng nổi tiếng như Đại Tá Trần quang Khôi ( sau là chuẩn Tướng ), Đại Tá Quang, Đại Tá Đồng…Những vị Thiết Đoàn Trưởng này rất gần gụi với Tướng Trí vì ông luôn sử dụng họ phối hợp với bộ binh, tạo được nhiều chiến thắng vẻ vang, ngược lại Tướng Hoàng Xuân Lãm là Tướng Thiết Giáp nhưng trận Hạ Lào Lam Sơn 719, ông không sử dụng TG được như Tướng Trí.
Tháng 3-1970, quân ta rầm rộ vượt qua biên giới sau khi có lệnh là lời hiệu triệu của TT nguyễn Văn Thiệu với toàn dân : Thưa quốc dân đồng bào, khi tôi đang nói những lời này cùng đồng bào thì Quân Đội ta vừa vượt qua biên giới Kampuchia để đánh đuổi quân CS xâm lược…
Lệnh xuất phát ban ra, từng cánh quân tràn qua biên giới, ĐĐ tôi được “cõng” bởi Chi Đoàn 2 Thiết Đoàn 10, Chi Đoàn Trưởng là Đ/U Nhuận, chưa vượt được bao xa thì chạm địch liền, không phải chỉ riêng cánh quân tôi mà hầu như suốt dọc biên giới, chỗ nào cũng chạm địch, chứng tỏ chúng ung dung ở đây đã lâu, xây dựng các cơ sở hậu cần vững chắc, quân ta với hỏa lực hùng hậu cùng sự yểm trợ của phi pháo, lúc này Hoa Kỳ vẫn còn yểm trợ ta nên các cánh quân tiến như chẻ tre, chiếm mục tiêu đầu, vượt qua cánh rừng chồi tới khoảng trống, tôi thấy trải dài theo biên giới ngút ngàn, khói lửa mù mịt, máy bay quần thảo tứ tung, mồ hôi trán đổ xuống mắt cay sè với cái nóng tháng 3, tôi nhận tin cánh quân bên cạnh, người bạn cùng khóa 21 VB của Trung Đoàn 49, Đại Đội Trưởng Nguyễn văn Bình vừa hy sinh, hồi trong trường, Bình chung ĐĐE với tôi, đạn nổ ròn rã từ các khẩu 12.7 của Thiết vận xa, đạn VC xé gió bay tới khiến tôi chẳng kịp bùi ngùi cho người bạn vừa nằm xuống, chiều các mục tiêu ấn định thanh toán xong, VC bỏ lại nhiều xác cùng vũ khí, tối quây tròn phòng thủ cùng với Chi Đoàn Thiết vận xa, nằm ngửa trên cái poncho bên cạnh hầm trú ẩn mới đào, người còn nguyên quần áo, hôi rình vì mồ hôi, cát bụi của cuộc quần thảo ngày hôm nay, người lính hỏa thực mang lại bịch gạo sấy với miếng thịt ba lát :
- Ăn chút đi ông thầy, sáng tới giờ ông chưa ăn gì cả
Chưa ăn gì mà có thấy đói đâu, chỉ khát nước, nhệu nhạo nhai vài ba miếng, nhớ tới Mai, ngước lên bầu trời, các vì sao lấp lánh, tôi thấy đôi mắt hạt nhãn như đang nhìn mình : chàng từ đi vào nơi gió cát, đêm trăng này nghỉ mát phương nao? nghỉ ở đâu ư Mai, anh đang trên vùng biên giới đó em, với mùi thuốc súng và mùi máu người. Em ạ, như anh nói rồi đấy, đời lính khổ lắm, yêu lính cũng khổ theo, chẳng biết rồi sẽ như thế nào, rất dễ dàng như Bình bạn anh hôm nay, với anh đã đành, phải chấp nhận và quen rồi, chỉ cầu xin em đủ nghị lực thôi.
Sau mấy tháng hành quân liên tục không ngừng nghỉ, tôi được thăng Đại Úy tại mặt trận, một ngày tháng 7-1970, TĐ tôi tách ra, hành quân chung với Thiết Đoàn 15 chiến xa, tiến vào vùng Mỏ Vẹt và chạm địch nặng tại đây, mục tiêu sát bìa rừng, một ngôi làng trải dài với hàng tre dầy kiên cố, 10 giờ sáng chạm địch, sau 2 lần xung phong không chiếm được mục tiêu, hầm hố địch rất kiên cố với đủ loại hỏa lực, ta bị cháy mất 2 chiếc M41, một số bị chết và bị thương của cả Thiết giáp và BB.
Khoảng 3 giờ chiều, một chiếc trực thăng lượn vòng vòng rồi đáp xuống, tôi ở gần đó đang chuẩn bị dàn quân cho cuộc xung phong tới, nhẩy ra khỏi trực thăng là Tướng Trí và một người đàn bà người Âu, cả 2 mặc đồ dù, Tướng Trí đội cái mũ lưỡi trai mầu đen, ông thoăn thắt bước lên chiếc xe nơi tuyến đầu mà thỉnh thoảng VC vẫn cầm chừng bắn về phía ta ( chúng ta nên biết Tướng Trí rất bận rộn vì bao quát nhiều cánh quân của QĐ 3, hầu như đâu cũng chạm địch, với ông lúc đó chỉ là lệnh và lệnh + sự điều động và theo dõi các trận đánh. Ông đáp xuống đây chắc SQ Tham Mưu bay cùng ông báo cáo cánh quân này chạm nặng và chưa tiến lên được ), nhìn vào mục tiêu quan sát một hồi, tôi thấy ông ta cầm cái can gõ gõ lên cái nón sắt của Trung Tá Đồng, Thiết đoàn Trưởng Thiết Đoàn 15 :
- Đù mẻ, lên ngay nghe Đồng, cháy bao nhiêu xe tao cho bấy nhiêu, phải chiếm cho được mục tiêu trước tối nay nghe chưa.
Trung Tá Đồng đứng nghiêm chào Tướng Trí nhận lệnh, Thiết giáp và BB xốc lại hàng quân, máy bay của ta và Mỹ quần thảo gầm rú trút bom xuống mục tiêu, xong tới pháo binh, cuối cùng TG và BB căng hàng ngang nhất tề xung phong, ông Tướng 3 sao đứng ngay phía sau, cả Thiết Đoàn Trưởng và Tiều Đoàn Trưởng đều xông lên, địch còn bắn ra nhưng yếu đi nhiều, giờ thì liều, chết cũng phải xông lên chứ không còn lui được nữa, xe và Bộ Binh tràn như nước vỡ bờ, địch tung hầm bỏ chạy, ta chiếm được mục tiêu, có sự trả giá đắt, ĐĐ tôi, Ch/U Thái trung đội Trưởng hy sinh, Đại Úy Xuân, Đại Đội Trưởng ĐĐ2, bạn cùng khóa, người ra lệnh cho tôi 10 ngày phải nắm được tay Mai, bị thương nặng, Thiết giáp cháy thêm một xe và một số chết + bị thương, xác địch và vũ khí vương vãi khắp nơi, ngay lúc đó TĐT cho tôi biết Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh vùng 4 vừa tử nạn máy bay khi đang điều động Quân Đoàn 4 đánh qua biên giới, chiếc CNC của ông đụng phải chiếc Cobra của Mỹ, 2 phi công Mỹ và Ban Tham Mưu + Tướng Thanh, tất cả đều hy sinh.
Có một điều thú vị và cảm động, trong một lần tiếp tế, tôi dặn Sĩ Quan chỉ huy hậu cứ mua cho cái bắp cải vì cứ ăn gạo sấy hoài, háo người quá, cái bắp cải có cộng với một cạp lồng cháo gà, viên HSQ hậu cứ theo chuyến trực thăng tiếp tế nói cô Mai lên tận Tây Ninh gửi cái này cho Đ/U, tôi gọi 3 Trung đội Trưởng sớt cho mỗi người ít cháo và mấy lá bắp cải, rau rửa qua loa vì nước rất quý, mọi người nhai ngấu nghiến, gạo sấy hoài, xót cả ruột.
TĐ tôi tạm rời vùng Mỏ Vẹt, tiến theo trục Quốc Lộ 1, đường lên Neak Luong, giữ đường cho TQLC hành quân đưa người Việt sống ở Kampuchia về, nhiều người Việt bị giết khoảng thời gian này, trong lần lục soát một ngôi làng ở vùng Kampong Trabek, vài người Tầu còn lại dẫn chúng tôi ra mấy cái giếng chỉ xuống cho coi, tôi thấy xương người, tóc tai, quần áo đầy dưới đó, họ nói trong làng có chục gia đình người Việt tất cả bị chặt đầu (cáp duồn) trong đó có nhiều trẻ con đều bị giết xô xuống giếng, thái độ lính trong ĐĐ thay đổi hẳn khi thấy điều này, tuy vẫn giữ kỷ luật nhưng đâu đó tôi thấy có sự xô đẩy và quát tháo mấy người Miên ở đây, tôi vội rút ĐĐ đi chỗ khác và ngăn chặn âm mưu của 3 Trung đội Trưởng, họ bàn với tôi là dàn dựng một cuộc chạm địch giả rồi nói: thẩm quyền xin pháo binh đi, tụi này tàn ác quá mà, tôi nói họ thôi, trong làng có đàn bà và trẻ con, không phải tất cả đều tàn ác - nếu không, với cuộc đụng trận giả, pháo binh sẽ làm không còn cái nhà nào đứng vững trong ngôi làng này.
Tôi được tin TĐ sẽ về lại Đức Hòa dưỡng quân, tin làm tôi thật vui, như vậy sẽ gặp lại Mai, xa nhau cũng mấy tháng rồi còn gì, tội nghiệp Mai, vò võ đợi chờ, còn tôi với bao bận rộn có thể quên đi được, trước khi về, ông Tiểu Đoàn Trưởng cho biết tôi có 2 ngày cho một Đại Đội lính Kampuchia( Lonnol ) theo tôi thực tập, hôm ra ngoài quốc lộ nhận ĐĐ này tôi mới tá hỏa, không phải 1 ĐĐ mà đông nghẹt tới 4,5 ĐĐ vì lính Kampuchia đi hành quân mang theo cả vợ con, gà vịt, nồi niêu soong chảo. Tối đóng quân, lính mình nằm vòng ngoài, đào hầm hố phòng thủ, họ nằm giữa còn nổi lửa nấu nướng linh tinh, tôi phải ra lệnh tắt hết lửa nhưng cũng vô ích, khuya trẻ con khóc, chó sủa, gà gáy…may là vùng này lúc đó tạm yên, giả như tối mà VC tấn công, tôi không biết lo toan sao với đám “lính” này. ĐĐT của lính Miên là 1 anh Tr/U Tầu lai, đeo 2 vạch vang trên cầu vai như quân đội Pháp, tay cầm bản đồ, địa bàn nhưng cầm cho lấy có, anh ta không biết cách sử dụng, cũng chẳng hiểu tốt nghiệp quân trường nào, nói chuyện với nhau phải dùng tiếng Pháp, may là suốt 7 năm Trung Học tôi chọn sinh ngữ 1 là Pháp nên cũng tạm hiểu nhau, họ nói tiếng Pháp rất thông thạo.
Cuối cùng chúng tôi cũng lên đoàn xe trở về Đức Hòa, có lẽ tại hậu cứ TĐ tôi vẫn còn ở đây dù SĐ đã chuyển về Cử Chi, tới nơi, Thiếu Úy Cư, ĐĐ phó nói với tôi : Đ/U cứ đi gặp chị Mai đi, để tôi sắp xếp ĐĐ cho. Tôi xuống xe jeep bước ngay vào nhà, Mai ôm chầm lấy tôi, nàng khóc chưa bao giờ tôi thấy khóc như vậy, lòng tôi cũng chùng xuống, mình cũng yêu Mai quá mất rồi, bắt đầu chỉ là tinh nghịch thôi, ai ngờ, người ta bảo đừng đùa với lửa mà. Ngày mai, tôi nhận sự vụ lệnh đi đơn vị mới : Đại Đội Trinh Sát, ở các đơn vị BB, hiếm có ĐĐT là Đ/U lắm nên việc tôi và Xuân chuyển làm nhiệm vụ khác cũng dễ hiểu. Xuân sau khi xuất viện đi làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2 , tối đó là tối cuối còn ở Đức Hòa, tôi và Mai ngồi nói chuyện tới tận khuya, lúc đứng lên, Mai quấn chặt lấy tôi, có tiếng thút thít, thân thể con gái thơm tho ấm áp, mềm mại qua làn áo mỏng, khi thấy ánh mắt tôi nhìn nàng khẽ gật đầu, Mai run rẩy :
- Em xin anh, hãy giữ gìn cho em, giữ gìn cho chúng ta, giữ gìn cho ngày hạnh phúc.
Tôi thở dài, tôi trân trọng Mai, giữ cho nàng, tôi biết nếu tôi muốn hơn nữa, Mai cũng chịu thua thôi, nàng đang mềm như sợi bún, không còn là chính nàng lúc này, tôi hối hả quay ra, tôi cũng không còn là chính tôi lúc này.
Về nắm ĐĐ Trinh sát, quanh quẩn suốt ngày với núi rừng, tuy nhiên cũng thường ở Hậu cứ sau những chuyến đi nguy hiểm, những lần như vậy. tôi cho xe về đón Mai lên, bây giờ thì đã có toan tính về tương lai, về những hoạch định chính thức, trước đây cứ nghĩ lấy vợ sẽ là một người ở Sài Gòn, nhưng SG xa quá và ít có thời gian ở đây, mà con tim thì sao biết được, Mai có gì cho mình phải suy nghĩ đâu? trước mắt, nàng được tất cả, yêu mình nồng nàn, chuyện là do chai bia biết nhẩy tango, cũng buồn cười, có phải tôi xuất hiện đúng lúc và nỗi buồn “may mắn” của tôi cũng đúng lúc.
Năm 1972, chiến trường lại bùng lớn, ĐĐ Trinh Sát không còn len lỏi bờ bụi rình rập nữa mà trực diện đánh nhau với VC như một ĐĐ bộ binh, tôi và Xuân lại có duyên với nhau, tôi được tăng phái cho Xuân lúc này là TĐT/TĐ2, cuộc chiến rất khốc liệt, VC sử dụng nguyên một SĐ rải chốt từ Chơn Thành lên tới Bình Long, mục đích không cho ta dùng đường bộ tiếp tế cho An Lộc, cả tôi và Xuân đều thiệt hại nặng, thậm chí có lúc Trinh Sát hết cả Sĩ Quan mà phải để Trung sĩ coi trung đội, một lần nữa, Xuân lại bị thương vì pháo, mất mất một mắt, nó rất tiếu lâm :
- Mỗi lần bị thương trước tiên tao sờ xem cái đó còn không, còn là tao yên tâm
Xuân lên Thiếu Tá và đi làm Quận Trưởng sau đó. Tôi nghĩ, giá Tướng Đỗ Cao Trí không bị “tai nạn” nổ trực thăng, có lẽ không có trận An Lộc này, Cục R của VC bị ông dí bắt, chiến trường ông mang ra xa khỏi miền Nam, ông làm chúng te tua, cái chết của ông lúc đó người ta chưa hiểu gì nhiều, cũng có suy nghĩ nào đó nhưng chưa rõ ràng, phải sau khi miền Nam rơi vào tay CS, lý do cái chết của ông ngày càng sáng tỏ hơn, bàn tay lông lá của Mỹ tạo ra sự việc này khi ông được điều động ra vùng 1 cứu nguy cho Lam Sơn 719. Đầu năm 1973, tôi rời Trinh Sát, về nắm Tiểu Đoàn 3/46, sau hiệp định Paris, tôi dẫn TĐ về bảo vệ Quận Dầu Tiếng, một quận nhỏ heo hút nằm sâu trong vùng đồn điền Michelin, ba phía trước mặt là mật khu, sau lưng là con sông, chỉ có chiếc cầu độc nhất nối liền với Quận Khiêm Hanh, có lần tôi tập họp Tiểu Đoàn nói chuyện cùng binh sĩ :
- Nếu địch tấn công phải ráng mà đánh trả, đây không có đường rút, con sông đó lội qua được không hay chết đuối. Vị trí như thế này, tôi nhớ tới một Tướng nào trong chuyện Tam quốc Chí thì phải đã đóng quân dựa lưng vào cái chết như thế này, nhưng nhờ vậy mà binh sĩ phải dốc lòng chiến đấu, không còn đường nào khác.
Mai xuống xe ở Khiêm Hanh, chuyển qua chiếc xe đò vô Dầu Tiếng, Mai lên thăm không báo trước, nàng nghĩ thầm : thôi kệ, để anh ấy bất ngờ, mọi lần thì có xe đón Mai lên, hôm nay Mai cứ sao xuyến trong lòng, mấy cái thiệp cưới đã in xong, nàng muốn đưa lên ngay để : anh ấy kịp gửi mời bạn bè. Chiếc xe cũ kỹ mệt mỏi lăn trên con đường đất đỏ, dân Dầu Tiếng cũng không đông mấy nên chuyến xe cũng không đến nỗi chật chội, đường vô Dầu Tiếng là con đường độc đạo, 2 bên đã được phát quang mỗi bên 200m, khi chiếc xe còn cách ngã ba Đất Sét 3 trăm thước thì bỗng một loạt đạn vang lên từ trong bìa rừng, tiếp theo là một tràng dài nhắm vào chiếc xe, chiếc xe cũ kỹ rung lên, VC lén lút mò ra bắn cả vào xe đò dân chúng di chuyển, Mai thấy nhói ở ngực, một vệt máu loang trên chiếc áo dài trắng, chiếc áo dành cho chàng, một loạt đạn nữa vang lên, Mai giật nẩy người gục xuống, nàng thảng thốt kêu lên :
- Anh ơi !
Nàng thấy ánh sáng mờ dần, Mai còn thấy chiếc cạp lồng đựng cháo ngả xuống, nàng với tay muốn giữ nó lại nhưng bàn tay không đưa ra được nữa rồi, nó buông thõng xuống, mấy cái thiệp cưới Mai vẫn giữ trong tay rớt xuống sàn xe, nhiều tiếng người kêu khóc, một làn gió thổi tới, mấy tấm thiệp bay tung theo bụi đỏ.
Khi nghe tin, tôi lái xe hộc tốc ngay ra chỗ chiếc xe đò bị bắn, chiếc xe đầy vết máu và vết đạn, tôi nhặt được một cái thiệp còn lại trên xe, cầm cái thiệp, người tôi run lên, không, không phải, Mai không sao hết, em không sao hết, những người chết và bị thương người ta cho biết đã được chuyển về Bệnh Viện Tây Ninh, tôi hối tài xế chạy ngay lên đó, tới nơi, tôi xông vào, người y tá trực hỏi:
- Thưa Thiếu Tá cần điều chi ?
Tôi nói về chiếc xe đò bị bắn ở giữa Khiêm Hanh và Dầu Tiếng
- Dạ, có 4 người chết và 6 người bị thương, mời Th/Tá theo tôi,
Anh ta dẫn tôi vô một cái phòng, trên một cái bàn, tôi thấy Mai nằm đó, nàng nằm ngửa, 2 tay đặt trên ngực, chiếc áo dính đầy máu, tôi nấc lên nắm tay Mai :
- Em ơi, Mai ơi, anh đây, cầm lấy tay anh
trong hốt hoảng tôi mong Mai sẽ cử động mà nắm lấy tay tôi, chớp chớp mắt khi nghe tiếng tôi nói, điều đó nghĩa là Mai chưa đến nỗi nào, hãy còn sự sống, nhưng bàn tay bất động và giá lạnh. Người y tá đến bên tôi :
- Thưa Thiếu Tá, chị ấy đi rồi !
Nước mắt dàn dụa, tôi nhìn khuôn mặt ngây thơ của Mai, nàng như đang ngủ, tôi cúi hôn lên vầng trán, vuốt vuốt mài tóc rối bời vương bụi đỏ, tôi đặt lên tay nàng chiếc thiệp cưới tôi nhặt được trên xe : ôi hạnh phúc của em đây, một hạnh phúc nhỏ nhoi em đang ngụp lặn mà người ta nỡ nhẫn tâm cướp đi của em. Tôi gục xuống.
Người ta bảo rồi thời gian sẽ xóa nhòa hết nhưng cho mãi nhiều năm sau này, tôi không bao giờ quên được hình ảnh Mai nằm trên chiếc bàn ở bệnh viện Tây Ninh máu loang chiếc áo học trò, khuôn mặt ngây thơ không chút hận thù : tôi có làm gì nên tội mà sao cướp đi hạnh phúc tôi, tôi đi gặp người yêu dấu của tôi mà? sao không cho tôi hưởng hạnh phúc của ngày lấy chồng, tôi mới đặt chân vào thiên đường thì lại xô tôi ra ? - Hữu Loan còn có đồi sim để những lần hành quân nhớ về người vợ trẻ chết vùng quê xa, tôi cũng có những lần hành quân nhưng không có đồi sim đi qua mà nhớ về Mai, không còn đôi mắt hạt nhãn chờ đợi như trước, nhưng tôi vẫn còn Bình Hữu, còn căn nhà xưa đầy ắp kỷ niệm để quay về, tôi trở lại đây biết bao lần, ngôi mộ ở giữa vườn sau nhà, Mai nằm đó cô đơn, hai bên mộ, má Mai trồng mấy cây huệ trắng, trắng tinh khiết như mầu áo học trò nàng mặc khi xưa, lần nào tôi cũng đứng lặng hàng giờ trò chuyện cùng nàng, tội nghiệp em, người đi chinh chiến đầy hiểm nguy thì không sao, tội nghiệp em đang say sưa ngụp lặn trong hạnh phúc, đang hân hoan với cuộc đời mầu hồng. Trong căn nhà, cái bàn Mai thường ngồi học mỗi tối vẫn để nguyên vậy, cái khung ảnh có hình Mai 2 tay chống dưới cằm, ánh mắt nhìn tôi cười nghịch ngợm : thì đã nói người ta dốt mà, chê người ta mãi, em bỏ muối vô cà phê cho xem.
TRẦN NHƯ XUYÊN
( Trích : Đoạn Đường Chiến Binh )
- tramthaiha
- Posts: 441
- Joined: Tue Sep 08, 2009 7:54 pm
- Contact:
Post by tramthaiha » Fri Aug 30, 2013 5:13 pm
Những cánh én giữa mùa đông
Tôi gặp anh trong buổi tiệc họp mặt mừng xuân của Hội Biệt Động Quân Nam Cali. Khi nghe giới thiệu, anh đến tìm tôi. Anh cầm tay hỏi lại tên tôi rồi nức nở với hai hàng nước mắt. Tôi ngạc nhiên, đứng dậy, im lặng xúc động nhìn anh khóc. Anh mặc bộ đồ bay màu đen, cao lớn, bô trai. Hàm râu mép vừa tăng vẻ cương nghị oai phong vừa đượm nét hào hoa lẫn một chút phong trần của những người đã từng một thời đi mấy về gió. Tôi vội vã cố lục lọi trong ký ức, nhưng không thể nhớ anh là ai, và đã từng gặp nhau chưa. Có thể là ngày xưa chúng tôi đã cùng tham dự một cuộc hành quân phối họp nào đó. Lúc ấy tôi là lính bộ binh, tham gia nhiều cuộc hành quân trực thăng vận, hoặc được L-19 bao vùng, Hỏa Long soi sáng hay được cận yểm bởi các oanh tạc cơ, mà chúng tôi xem như những chàng dũng sĩ, cứu tinh trong giờ phút lâm nguy. Tôi có dịp quen biết một số phi công, nhiều nhất là ở các Phi Đoàn trực thăng, nhưng không nhận ra chàng pilot vẫn còn đầy phong độ, đang ngồi trước mặt mình.
Khi bớt xúc động, anh đưa tay lau nước mắt và tự giới thiệu:
- Xin lỗi anh, gặp anh tôi xúc động quá, vì nghĩ tới anh tôi. Tôi là em của anh Phạm văn Thặng.
Bây giờ tôi mới hiểu ra. Đúng là tôi chưa gặp anh bao giờ. Sở dĩ anh biết tôi, vì mới đây trong một ký sự về chiến trường xưa, tôi có nhắc lại những trận đánh tại Kontum, và trong đó có kể lại cái chết can trường của người phi công anh hùng Phạm văn Thặng, khi anh đang bay một phi vụ yểm trợ cho chính đơn vị của tôi.
Tôi cảm động, ôm lấy vai anh và mời anh ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Chỉ nói chuyện được một lúc, vì cả hội trường đang bừng lên với những bài hùng ca trên sân khấu. Anh cho tôi địa chỉ, số điện thoại và mong được gặp tôi tại nhà anh vào cuối tuần sau. Anh muốn biết tường tận hơn về cái chết của người bào huynh khả kính, cố Trung tá Phạm văn Thặng.
Qua tâm tình, tôi biết anh có một cái tên khá đẹp: Phạm Vương Thục. Trước 75 từng là phi công trực thăng võ trang của một Phi Đoàn kỳ cựu, tiếng tăm Vùng I: Song Chùy - 213. Đọc trên Cánh Thép, tôi còn biết anh từng là Lead Gun (trưởng toán trực thăng võ trang), tham gia trong suốt cuộc Hành Quân Lam Sơn 719. Một trận chiến mà địch quân tập trung hỏa lực phòng không mạnh mẽ nhất từ trước tới nay. Gây thiệt hại không nhỏ cho các đơn vị không quân Hoa Kỳ và Việt Nam tham chiên. Nhờ tài năng, phán đoán nhanh nhẹn cùng với sự bình tĩnh và can trường, anh đã vẫy vùng trên bầu trời trận mạc, bao lần vượt qua cái chết trong đường tơ kẻ tóc để yểm trợ hữu hiệu, cứu nguy cho các lực lượng chiến đấu cũng như cho chính những người bạn trong Phi Đoàn. Có lần phi cơ trúng đạn, anh đã phải đáp khẩn cấp xuống Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 30, trong khi Đồi 31 đã bị thất thủ.
Phạm Vương Thục với Tướng STEVE RICHIE , người cựu phi công từng hạ 5 Mig 21 của CSBV
Chúng tôi không mấy khó khăn khi tìm đến nhà anh, dù lúc trời đã tối và đang vần vũ một cơn mưa. Chưa kịp bấm chuông là anh đã mở cửa, vui mừng mời chúng tôi vào. Ngôi nhà khá đẹp, bày biện trang nhã. Điều làm chúng tôi bất ngờ cảm động là ở một góc của tầng trên là bàn thờ trang trọng với tấm ảnh chân dung lớn của cố Trung Tá Phạm văn Thặng, một số bạn bè không quân của anh đã hy sinh, năm vị tướng và một số sĩ quan khác đã tuẫn tiết vào giờ thứ 25 cuộc chiến. Chúng tôi đứng nghiêm trước các bức chân dung, lòng ngâm ngùi thương tiếc, cùng cảm kích tấm lòng của anh, người phi công dũng cảm hào hoa vẫn luôn giữ trọn tình với quê hương, chiến hữu.
Chị Thục từ dưới bếp chạy lên vui vẻ chào chúng tôi. Đúng là vợ phi công. Chị rất hiếu khách, bặt thiệp. Sau đó, khi nhìn trên bàn thờ gia đình, thấy tấm ảnh chân dung của Đại tá Trịnh Tiếu, tôi mới biết chị Thục là em gái của vị Trưởng Phòng Nhì Quân Đoàn mà tôi đã vài lần được gặp ở Kontum. Sau 75, Ông từng bị tù đày, tra tấn hành hạ nhiều năm, sức khỏe hao gầy, bệnh hoạn, nên vừa mới qua đời tại hải ngoại. Tấm ảnh của ông mới nhất trong số các bức ảnh chân dung khác trên bàn thờ. Anh Thục kể lại chuyện hai người tình cờ quen nhau, khi anh chỉ huy một phi đội vào Quảng Ngãi tham gia hành quân với Sư Đoàn 2BB. Buổi chiều, trước khi bay về Căn Cứ Phi Đoàn ở Đà Nẳng, anh được BTL/SĐ chuyển lại lời yêu cầu của Đại Tá Trịnh Tiếu (khi ấy là Trung Tá). Thục đã nhận lời chở quan tài của thân sinh đại tá Tiếu từ Quảng Ngãi ra Hội An an táng, và trong “phi vụ” đặc biệt này anh đã quen và làm xiêu lòng cô em gái xinh đẹp của ông, tháp tùng trên chuyến bay.
Trong bàn ăn, chúng tôi kể lại những chuyện vui buồn trong thời lính chiến ngày xưa. Anh Thục cho biết anh được tin máy bay anh Phạm văn Thặng lâm nạn tại Kontum vào lúc 5.30 giờ chiều ngày 26.5.72. Ngay sáng hôm sau Sư Đoàn 1 KQ cho một phi cơ A37 đưa anh từ Đà Nẵng vào phi trường Pleiku. Phi công của chiếc A37 này lại là người em cột chèo của anh, Thiếu Tá Trịnh Đức Tự (sau này đã anh dũng hy sinh tại chiến trường Quế Sơn). Nhưng khi đến Pleiku, anh được cho biết tình hình ở Kontum rất nặng nề, chưa thể tìm được anh Thặng nhưng sự sống sót rất mong manh, không còn chút hy vọng nào. Thục đã bay trở lại Đà Nẵng trong ngày. Đến tối, anh được BTL/KQ cho biết là thi thể anh Thặng đã được đưa về Tử Sĩ Đường ở Tân Sơn Nhất. Khi anh cùng người anh cả vào nhận xác, thấy đầu anh Thặng không còn, nên quyết định cho tẩm liệm ngay, không muốn cho gia đình biết thêm điều đau đớn này Anh đã tột cùng xúc động khi quá thương tiếc người anh khả kính đã từng có với mình cả một trời kỷ niệm tuổi thơ, đặc biệt khi còn ở miền Bắc. Anh Thặng là người con thứ sáu và anh Thục là người con thứ tám của gia đình. Năm Thục vừa tròn 12 tuổi và anh Thặng 16, đã cùng gia đình di cư vào Nam, sống và lớn lên ở thành phố Huế. Không chỉ là anh em, hai người còn là đôi bạn thân thiết, cùng theo học trường Pellerin nổi tiếng do sự giúp đỡ tận tình của các Linh mục và Sư huynh, trước khi chia tay vào quân ngũ. Vài ngày trước khi hy sinh, như là điềm báo trước, anh Thặng gọi điện thoại về Đà Nẵng thăm anh và hỏi han khá nhiều về mọi người trong gia đình.
Tôi kể lại hành động can trường của anh Thặng mà tôi đã được chứng kiến từ khi anh lên vùng cho đến lúc hy sinh, và người bạn tù Lôi Hổ của tôi kể lại việc lấy xác của anh sau khi lâm nạn. Anh Thục ngồi nghe và khóc sụt sùi. Trước khi chia tay, anh xin địa chỉ e-mail của bạn tôi, bảo sẽ báo tin này cho cô con gái lớn của anh Thặng, hiện định cư ở Đức để cháu cám ơn người đã giúp lấy xác ba cháu. Hai ngày sau, người bạn chuyển cho tôi bức điện thư với lời lẽ rất lễ phép, cảm động dễ thương của cháu Phạm Hồng Phương, con gái lớn của anh Thặng.
Vào tối ngày 29.4, được thư mời của anh Thục, chúng tôi đến nhà hàng Paracell tham dự một Chương Trình Tưởng Niệm do cá nhân anh phối họp với người bạn thân, chiến hữu Đặng Thành Long, một cựu SQ Hải Quân, tổ chức. Anh đón chúng tôi trước cửa Nhà Hàng, nơi có bàn thờ nhiều vị Tướng Lãnh và Sĩ Quan VNCH đã hy sinh tại chiến trường hay tuẫn tiết trước giờ mất nước. Buổi Tưởng Niệm được tổ chức thật chu đáo, và nhiều ý nghĩa, trong không khí tôn nghiêm và cảm động. Tất cả tiền thu được dành hổ trợ những người đấu tranh trong nước đang bị tù đày khốn khổ. Cũng trong đêm nay, tôi được hân hạnh gặp bác sĩ Ngô Thế Khanh, một cựu y sĩ Không Quân tại Pleiku, một người lúc nào cũng trọn tấm lòng với anh em. Cái tình chiến hữu anh đã dành cho làm tôi cảm động. Tôi cũng được gặp một số các anh phi công khác. Tất cả đều có một thời oanh liệt, ngang dọc trên bầu trời quê hương và hào hùng trên đầu quân địch. Đêm nay cũng có người phi công mà tên anh có lẽ người cựu lính nào cũng biết. Bởi những bài ký sự chiến trường, mà ai đọc qua cũng phải ngưỡng mộ anh, không những cảm phục về tài bay bổng mà còn có một trí nhớ thật phi thường. Người hùng Vĩnh Hiếu, Lead gun của Phi Đoàn Thần Tượng 215. Phi Đoàn mà đơn vị tôi có nhiều gắn bó nhất, lúc còn hoạt động ở khu vực Sông Mao, và khi ấy người anh cả cuối cùng của Phi Đoàn, Trung Tá Khưu văn Phát còn là Đại úy Trưởng Phòng Hành Quân. Đêm nay, đã trải qua 35 năm dâu bể, nhưng Vĩnh Hiếu vẫn rất trẻ trung, với đôi mắt sáng, hàm râu mép hào hoa, nụ cười rạng rỡ, với những cái bắt tay thật chặt ân tình và những chuyện chiến trường, chuyện đồng đội sôi nổi dường như không muốn dứt. Như vậy đó, mà anh đã từng là một phi công trực thăng võ trang gan dạ hào hùng trên khắp chiến trường Vùng 2 khói lửa năm nào. Ngồi nói chuyện với anh, tôi thầm nghĩ, nếu bây giờ trở lại chiến trường, Thần Tượng Vĩnh Hiếu này cũng vẫn là một Lead Gun hào hùng(và hào hoa) như thuở trước.
Qua anh Thục, hôm sau tôi liên lạc được một người bạn phi công anh hùng khác. Người mà tôi đã từng chứng kiến và ngưỡng mộ về tài năng và sự can đảm phi thường. Thiếu Tá Hàn văn Trung. Năm 1973, khi ấy Hàn văn Trung còn mang cấp bậc Đại Úy, giữ chức vụ Trưởng Phòng Hành Quân của Phi Đoàn 235 Sơn Dương ở Pleiku.
Hôm ấy, tôi nhận lệnh Đại Tá Bùi Hữu Khiêm, TMT Sư Đoàn 23BB, cùng bay trên chiếc C&C của Phi Đoàn 235, để bốc khẩn cấp số thương binh, trong đó có Thiếu Tá Cang, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 2/44 ra khỏi căn cứ Võ Định. Căn Cứ nằm phía Bắc Kontum khoảng 15 cây số, bên cạnh QL 14 trên đường đi Dakto, trên ngọn núi trọc, với một cao điểm có khả năng chế ngự các vùng chung quanh. Đặc biệt, ngay phía dưới là con sông Dak La. Bên kia sông trở về hướng Bắc là vùng địch chiếm từ cuối tháng 4/72, sau khi BTL/ SĐ 22BB tại Tân Cảnh bị tràn ngập và vị Tư Lệnh đã lẫm liệt hy sinh, vùi thân nơi chiến địa. Căn cứ này đã trải qua nhiều trận chiến, bao lần bỏ đi rồi chiếm lại, nên bây giờ chỉ còn là một ngọn đồi xám xịt, hoang tàn loang lổ dấu đạn bom.
Thiếu Tá Nguyễn Hữu Cang, tốt nghiệp khóa 17 Võ Bị Đà Lạt, nguyên là Sĩ Quan Nhảy Dù. Trong một cuộc hành quân trực thăng vận tại Đông Hà, anh bị thương nặng ở chân phải. Xụất viện, với một thanh sắt vĩnh viễn nằm trong cái chân khập khiễng, được lệnh thuyên chuyển ra khỏi Nhảy Dù về BTL/Quân Đoàn II, giữ một chức vụ tại Trung Tâm Hành Quân. Chỉ một thời gian ngắn, anh khẩn khoản xin ra đơn vị tác chiến, mặc dù Phòng Tổng Quản Trị từ chối vì tình trạng sức khỏe của anh. Anh tiếp tục xin vị Tư Lệnh, và cuối cùng được toại nguyện, bổ nhiệm về nắm Tiểu Đoàn 2/44, mà vị Trung Đoàn Trưởng trẻ tuổi thao lược, lại là người bạn cùng khóa: Trung Tá Ngô văn Xuân.
Đầu năm 1973, vài ngày trước khi có Hiệp Định Paris (Ngưng Bắn Da Beo), Tổng Thống Thiệu ra lệnh các đơn vị cố gắng mở rộng tối đa vùng kiểm soát, đặc biệt chiếm lấy những vị trí quan trọng để cấm ngọn cờ chủ quyền. Tiểu Đoàn 2/44 nhận lệnh phải chiếm bằng được căn cứ Võ Định, cao điểm trọng yếu tận cùng phía Bắc Kontum.
Với sự yểm trợ hỏa lực mạnh mẽ, hữu hiệu của Không Quân và Pháo Binh, Tiểu Đoàn 2/44 của Thiếu Tá Cang được trực thăng vận bất ngờ xuống ngay vùng địch, đánh một trận khá đẹp, nhanh chóng tiêu diệt lực lượng địch án ngữ phía dưới và dễ dàng chiếm lĩnh căn cứ trên ngọn đồi Võ Định. BCH Tiểu Đoàn, Đại Đội CHYT và một Đại Đại Đội tác chiến trách nhiệm phòng thủ căn cứ. Các Đại Đội còn lại bung ra hoạt động các vùng lân cận. Một toán Công Binh được thả xuống ngay sau đó để tu sửa lại hệ thống phòng thủ, nhất là vị trí dành cho một trung đội pháo binh 105 ly sẽ được thả xuống nay mai. Ngày N+1 tình hình hoàn toàn yên tĩnh, nhưng sáng sớm hôm sau, pháo địch từ bên kia sông thi nhau ập xuống. Địch đã có sẵn các yếu tố tác xạ và sử dụng tối đa các loại pháo, liên tục và chính xác. Những công sự phòng thủ chưa kịp tu bổ xong đã bị phá hủy. Thiếu tá Cang và một số sĩ quan và binh sĩ bị thương, kể cả anh Sĩ Quan trưởng toán Công Binh.
Ngày hôm sau, tình hình trở lại yên tĩnh trong không khí căn thẳng nặng nề. Sau khi Sao Mai 09, (phi cơ quan sát L-19) hướng dẫn hai phi tuần đánh bom vào các điểm nghi ngờ vị trí đặt pháo của địch, hai chiêc trực thăng tản thương, được yểm trợ bởi các gunships, đáp xuống căn cứ để bốc thương binh. Riêng Thiếu Tá Cang tình nguyện ở lại cùng đơn vị. Nhưng khi chiếc thứ nhất vừa đáp, hằng loạt pháo địch lại thi nhau rót xuống. May mắn chỉ có người co-pilot bị thương nhẹ, nhưng máy bay bị trúng đạn, không cất cánh được. Chiếc thứ nhì quyết không bỏ đồng đội, đáp xuống bốc phi hành đoàn trong tiếng nổ và khói lửa mù trời của pháo địch.
Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình, BTL Sư Đoàn quyết định rời bỏ căn cứ Võ Định để tránh tổn thất do trận địa pháo của địch. Tiểu Đoàn 2/44 rút về Căn Cứ Eo Gió, nằm phía Nam Võ Định khoảng bốn cây số. Nhưng phải giải quyết số thương vong và anh Tiểu Đoàn Trưởng không thể di chuyển theo đoàn quân bộ chiến được. Tôi được vị Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn giao cho trách nhiệm tháp tùng trên chiếc C&C của Phi Đoàn 235 thi hành nhiệm vụ khá gay go nhưng rất khẩn cấp này.
Đến bãi đáp B15, tôi gặp người chị huy hợp đoàn trực thăng hôm ấy. Rất vui mừng khi gặp lại Đại Úy Hàn văn Trung, Trưởng Phòng Hành Quân Phi Đoàn 235. Tôi đã từng bay đổ quân với anh vài lần, thích bản tính vui vẻ và thầm thán phục về khả năng chỉ huy và bay bổng của anh. Sau khi nghe tôi trình bày tình hình và mục tiêu, cũng như lời dăn dò của vị TMT /SĐ, Đại Úy Trung gọi các phi công lại để bàn kế hoạch. Tôi lên chiêc C&C do Trung điều khiển, cất cánh trước cùng với hai trực thăng võ trang. Sau một vòng bay để quan sát kỹ lưỡng địa thế, anh Trung bay vòng lại và gọi tất cả phi cơ còn lại lên vùng. Tôi thấy anh cho một số phi cơ bay tản ra nhằm đánh lạc hướng địch, để hai trực thăng khác bất ngờ đáp xuống căn cứ. Nhưng không tránh được sự quan sát của địch. Chiếc trực thăng vừa can đảm xuống thấp và lấy hướng an toàn bay vào, thì pháo địch đã nổ ngay trên bãi đáp. Đại Úy Trung cùng hai trực thăng võ trang liền xuống thấp yểm trợ, và cùng lúc ra lệnh cho chiếc trực thăng này bay ra theo hướng an toàn nhất, chiếc thứ hai bay từ hướng khác tìm cách bất ngờ xuống bãi đáp. Nhưng pháo địch tiếp tục ập xuống. Nhìn chiếc trực thăng bay lên từ trong một vùng khói lửa, chúng tôi ai cũng căng thẳng, hồi họp lo âu. Đại úy Trung ra lệnh cho cả hợp đoàn bay về Kontum lấy xăng.
Sau gần một giờ nghỉ ngơi và nghiên cứu một kế hoạch khác, Đại úy Trung gọi các phi công lại, thảo luận kế hoạch và phân chia nhiệm vụ. Lần này anh sẽ đích thân lái chiếc C&C đáp xuống bốc thương binh. Dường như Trung vừa mới quyết định một điều bất thường, ngoại lệ, nên tất cả mọi người đều tròn mắt nhìn anh ái ngại. Anh nổ máy, đích thân điều khiển phi cơ. Anh bay thật thấp dọc theo con suối chảy dài phía bên trái quốc lộ 14, trong khi hai gunships bay hai bên và tác xạ trước vào các điểm nghi ngờ. Hơp đoàn còn lại bay theo phía sau xa. Anh bay thấp đến nỗi các hàng lau sậy nằm rạp xuống ngay dưới bụng máy bay, nước dưới suối bắn tung lên. Đã từng rất nhiều lần ngồi trên trực thăng, nhưng chưa bao giờ tôi bị “bay” rất nhanh với một độ thấp như thế. Mấy lần tôi suýt thét lên, khi chợt thấy phía trước là một cây cao hay một tảng đá, nhưng anh đã tài tình lách qua tránh khỏi. Tôi có cảm tưởng chiếc trực thăng như là một món đồ chơi nhỏ bé trong tay anh.
Con suối khá dài, dẫn tới triền đồi Võ Định. Anh Trung tiếp tục bay sát theo ngọn đồi. Tôi có cảm giác như chiếc trực thăng đang bò lên căn cứ. Địch quân không hề hay biết. Nhưng khi anh bất ngờ đáp xuống, bụi mù bốc lên, địch mới phát hiện và pháo bắt đầu nổ. Cát, sạn, và có thể có cả mảnh đạn nữa, bay rào rào vào thân và kiếng phi cơ. Nắm chặt khẩu M-18, tôi chưa biết xử trí thế nào, thì thấy anh Trung bảo người co-pilot giữ cần lái, rồi mở cửa máy bay nhảy xuống. Tôi nhảy theo anh, chạy về hướng hầm chỉ huy đốc thúc, phụ lực khiêng và dìu thương binh ra phi cơ. Thương binh khá đông, có tới trên 10 người. Thiếu Tá Cang nhìn chúng tôi lo lắng, nhưng đại úy Trung rất bình tĩnh ra dấu cho tất cả lên máy bay. Đạn pháo vẫn tiếp tục rót xuống, một vài thương binh lại bị thêm ít mảnh đạn. Trung là người cuối cùng bước lên tàu khi anh co-pilot điều khiển cho phi cơ quay đầu lại và bay nhanh xuống đồi.
Đáp xuống bãi đáp B-15. nhìn thấy trên thân và kiếng phi cơ lỗ chỗ nhiều vết đạn, Thiếu Tá Cang và tôi đã ôm chầm lấy Trung và người co-pilot. Giọt nước mắt biết ơn và cảm phục đã lăn xuống gò má của tất cả những người lính bộ binh vừa được Trung và phi hành đoàn bốc ra từ cõi chết.
Trở về Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn ở căn cứ B-12, tôi gặp hai ông Đại tá Tư Lệnh Phó và TMT Sư Đoàn. Kể lại phi vụ đặc biệt của Phi Đoàn 235, tôi hết lời ngợi ca và xin đề nghị tưởng thưởng cho đại úy Trung một Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, và các anh còn lại của phi hành đoàn mỗi người một ngôi sao vàng. Hai ông đại tá hứa sẽ làm theo đề nghị của tôi( Nhưng không biết sau này kết quả ra sao). Một vị Trung tá KQ ngồi cạnh anh Sĩ Quan Không Trợ, mà khi vừa mới bước vào tôi không để ý, quay sang nhìn tôi cười:
- Tay Trung này thì có tài và liều lĩnh lắm, nhưng cũng là một tay coi trời bằng vung. Nó đùa giỡn với chiếc máy bay như là một món đồ chơi. Thích biểu diễn kiểu nào là nó làm ngay, và dù có bị “ký củ” hơi nhiều, vẫn cứ cười tỉnh bơ. Vì vậy nên có thừa tài năng và can đảm, nắm Trưởng Phòng Hành Quân mà vẫn chưa mang Thiếu tá được!
Tôi không còn nhớ rõ là đó là Trung Tá Quang hay Trung Tá Vĩnh Quốc. Nhưng tất cả mọi người trong TTHQ đều cười và thán phục. Sau này Thiếu Tá Cang nhận Trung là người anh em kết nghĩa. Sau một cuộc hành quân trở về, hai chàng lại gặp nhau, bù khú ngay trong căn cứ dã chiến của Tiểu Đoàn. Mùa hè 2010, gặp lại anh Cang trong Buổi Họp Mặt Khóa 17 VBĐL tôi báo cho anh biết là tôi vừa nói chuyện với Hàn Văn Trung trong điện thoại. Mắt anh Cang sáng lên. Mừng như sắp được gặp lại người tri kỹ.
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng. Địch quân khiếp sợ. Không có chiến tích nào mà thiếu sự tham dự của các chàng trai hào hoa ấy. Với những người lính bộ binh như chúng tôi, các Bạn luôn là những cứu tinh, là niềm hy vọng khi đơn vị bị lâm nguy, hay gặp khó khăn trên con đường tiến quân vào vùng địch. Các Bạn cũng là ân nhân của bao nhiêu thương binh và gia đình tử sĩ. Không có sự can trường, sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy của các Bạn, có biết bao chiến binh đã phãi vĩnh viễn nằm lại tại chiến trường, ở một vùng núi rừng lạnh lùng vô danh nào đó. Tôi đã từng theo dõi những phi vụ tản thương của Phi Đoàn 243 Mãnh Sư, từ căn cứ Phù Cát đã phải bay lên Cao Nguyên trong những đêm khuya gió mưa tầm tã. Có chiếc lạc vào những đám sương mù dày đặc, và rớt trên đỉnh núi cùng với số thương binh của chính đơn vị tôi vừa mới được bốc lên. Tôi đã đứng nghiêm trong TTHQ để đưa tay chào vĩnh biệt!
Các Bạn đúng là những cánh én đã từng mang lại bao mùa Xuân cho đồng đội, cho quê nhà. Những cánh én ấy, giờ đây, dù đã phải trải qua bao thăng trầm nghiệt ngã, dù tan tác chia lìa khắp muôn phương, nhưng vẫn luôn khát khao vẫy vùng trên bầu trời xưa cũ. Tiếc rằng, chúng ta đã phải trải qua một mùa Đông quá dài. Dài hơn cả đoạn đời đẹp đẽ nhất, khi các Bạn còn bay bổng trong bầu trời xanh, trong lửa đạn, mà vẫn vui đùa trước lằn ranh sống-chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.
Mãi mãi các Bạn vẫn là những cánh én hào hùng. Cho dù những cánh én ấy đang phải ẩn mình để chờ đợi một mùa Xuân.
Phạm Tín An Ninh
Post by khieulong » Sun Sep 01, 2013 12:05 am
Tiểu Đoàn 92 BĐQ 510 Ngày tại Tống Lê Chân
Mũ Nâu Đặng Hưng Vượng
Vài dòng giới thiệu tác giả:
- Đại đội trưởng của một đại đội của Tiểu Đoàn 92 BĐQ.
- Đã đưa đại đội trinh sát của Tiểu Đoàn 92 BĐQ tăng phái cho Sư Đoàn Kỵ Binh Black Horse, Hoa Kỳ, đang đóng ở Lai Khê,
đại đội Brown Team, khoảng 4 tháng. Trách nhiệm của Đại Đội là đi giải vây để cấp cứu các phi hành đoàn trực thăngMỹ bị bắn rơi.
- Trong nửa thời gian đầu căn cứ TLC bị địch vây hãm, là Sĩ Quan Không Trợ, Phụ Tá Ban 3 của Tiểu Đoàn.
- Sau đó, theo trực thăng tải thương rời căn cứ, làm Sĩ Quan Tiền Cứ cho Tiểu Đoàn, và trách nhiệm thả dù tiếp tế cho Tiểu Đoàn ở TLC.
- Sĩ Quan Tiền Cứ, kiêm Phát Hướng Viên Tiểu Đoàn khi Trung Tá Nguyễn Hân làm Tiểu Đoàn Trưởng,
kế tiếp là Thiếu Tá Lê kim Tư làm Tiểu Đoàn Trưởng.

Trại Tống Lê ChânTonlé Tchombe là một vùng đất thuộc Tây Ninh nằm sát ranh giới với Bình Long, đầu nhánh sông Saigon. Đa số người Miên và người Thượng sinh sống lâu đời quanh vùng này. Mặc dù thuộc tỉnh Tây Ninh, nhưng lại gần với tỉnh lỵ An Lộc, Bình Long, trại cách An Lộc 15 km theo đưòng chim bay và cách Xa Cam trên 10km trong khi cách rất xa tỉnh lỵ Tây Ninh. Năm 1967, khi Thiếu Tá Đặng hưng Long, Trưởng Phòng 3 thuộc Bộ Chỉ Huy C3 Chiến Thuật, Lực Lương Đặc Biệt (LLĐB), nhận lệnh lập trại ở đây, ông đã đặt tên là Trại Tống Lê Chân, dựa theo âm sắc của Tonlé Tchombe. Sau khi thay đổi vài trại trưởng, Đại Uý Lê văn Ngôn được chỉ định làm trại trưởng cuối cùng trước khi chuyển sang BĐQ. Năm 1970, cùng với việc cải tuyển các trại biên phòng cuả LLĐB thành các tiểu đoàn BĐQ Biên Phòng, lực lượng ở đây trở thành Tiểu Đoàn 92 BĐQ (14-9-1970), do Đại Uý Lê văn Ngôn làm tiểu đoàn trưởng và Trung Uý Trần hữu Phước làm tiểu đoàn phó, dưới quyền điều động trực tiếp của Bộ chỉ huy Quân Khu 3 BĐQ, do Đại Tá Nguyễn thành Chuẩn làm chỉ huy trưỏng, vốn là Chỉ Huy Trưởng C3 LLĐB chuyển sang.Mũ Nâu Đặng Hưng Vượng
Vài dòng giới thiệu tác giả:
- Đại đội trưởng của một đại đội của Tiểu Đoàn 92 BĐQ.
- Đã đưa đại đội trinh sát của Tiểu Đoàn 92 BĐQ tăng phái cho Sư Đoàn Kỵ Binh Black Horse, Hoa Kỳ, đang đóng ở Lai Khê,
đại đội Brown Team, khoảng 4 tháng. Trách nhiệm của Đại Đội là đi giải vây để cấp cứu các phi hành đoàn trực thăngMỹ bị bắn rơi.
- Trong nửa thời gian đầu căn cứ TLC bị địch vây hãm, là Sĩ Quan Không Trợ, Phụ Tá Ban 3 của Tiểu Đoàn.
- Sau đó, theo trực thăng tải thương rời căn cứ, làm Sĩ Quan Tiền Cứ cho Tiểu Đoàn, và trách nhiệm thả dù tiếp tế cho Tiểu Đoàn ở TLC.
- Sĩ Quan Tiền Cứ, kiêm Phát Hướng Viên Tiểu Đoàn khi Trung Tá Nguyễn Hân làm Tiểu Đoàn Trưởng,
kế tiếp là Thiếu Tá Lê kim Tư làm Tiểu Đoàn Trưởng.
Vài dòng về LLĐB:
- VNCH có 4 vùng chiến thuật. Mỗi vùng có một Bộ Chỉ Huy C. Quân Khu 3 có Bộ Chỉ Huy C3 LLĐB.
- Bộ Chỉ Huy C3 LLĐB chỉ huy 3B. Mỗi B là một khu chiến thuật cuả Quân Khu. QK III có 3 Khu Chiến Thuật 31, 32, và 33.
B15 LLĐ, thuộc Khu Chiến Thuật 33, đóng tại Bình Long dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Đặng hưng Long.
B16 LLĐB đóng tại Tây Ninh, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê tất Biên.
B14 LLĐB đóng tại Phước Long, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Văn công Báu, hay Lê văn Hành (?).
- Mỗi B chỉ huy khoảng 10 toán A LLĐB. Mổi toán phụ trách một trại biên phòng.
Các trại biên phòng tập trung dọc theo biên giới Nam VN từ Bến Hải đến Cà Mau, nơi đây tập tung vào việc tuyển mộ và huấn luyện Dân Sự Chiến Đấu (còn gọi là Biệt Kích Quân) để phát giác và ngăn chận đường xâm nhập của CS vào lãnh thổ VN. Toán A162 đóng tại căn cứ Tống Lê Chân trực thuộc B16 đóng tại Tây Ninh, nhưng sự yểm trợ và liên lạc bị trở ngại vì quá xa nên giao cho B15 của Trung Tá Đặng hưng Long trực tiếp chỉ huy.
Khoảng năm 1970, các trại biên phòng LLĐB chuyển cải thành BĐQ biên phòng, và vẫn giữ các nhiệm vụ như trên. Từ 1974, các tiểu đoàn biên phòng sát nhập vào các liên đoàn BĐQ, thay đổi khu vực hành quân theo vùng, không còn ở một vị trí cố định như trước. Từ đây, nhiệm vụ của các tiểu đoàn BĐQ hoàn toàn giống nhau.
Như đã nêu ở trên, các trại biên phòng trên toàn lãnh thổ miền Nam đều có nhiệm vụ phát giác và ngăn chận các đơn vị VC xâm nhập từ Kampuchia, Lào vào lãnh thổ VNCH. Đối với trại Tống Lê Chân, trại còn có ý nghiã chiến lược quan trọng hơn. Do vị trí đặc biệt, nằm trong chiến khu C, gần khu Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Kampuchia, là nơi đặt đại bản doanh của Cục R, trại còn là điểm ngăn chặn, hoặc phát giác CS xâm nhập vào Tây Ninh (gần sát Thủ Đô Saigon) qua Katum… Do đó, trại TLC luôn là cái gai trước mắt, VC cần loại bỏ với bất cứ giá nào.
Khi chuyển qua BĐQ, Tiểu Đoàn 92 có khoảng 350 quân nhân các cấp, đa số là người Miên, một phần người Thượng, và người Việt. Tiểu Đoàn có 4 đại đội. Các sĩ quan, hạ sĩ quan đa số từ LLĐB. Các cán bộ Dân Sự Chiến Đấu, quen khu vực quanh căn cứ, và có kinh nghiệm chiến đấu cao, được mang cấp bậc Chuẩn Uý, hoặc Thiếu Uý. Sau đó, họ sẽ được đi học khoá Sĩ Quan Hoàn Hảo tại Trường Thủ Đức để bổ túc kiến thức. Tiểu đoàn còn có một trung đội pháo binh 105 ly, có khả năng yểm trợ tới Xa Cam (cách An Lộc 10 km về phiá Nam). Khi mặt trận An Lộc bắt đầu, Sư Đoàn 25 BB đã đặt ở đây thêm 1 trung đội pháo binh 155 ly, đủ để yểm trợ mặt trận An Lộc khi cần. (Khi mặt trận An Lộc chấm đứt, Sư Đoàn 25 BB đã rút 2 khẩu 155ly khỏi căn cứ.)
Căn cứ nằm trên một ngọn đồi cao 50m trấn áp cả khu vực chung quanh, thuận lợi cho việc phòng thủ, bất lợi cho việc tấn công. Đường kính trung bình 400m, với các công sự đã được công binh Mỹ (US Sea Bee) xây cất. Phiá bên phải trước cửa là đầu nhánh sông Saigon. Trại giống như một ngôi sao nhiều cánh với 2 đại liên 50 bắn về 2 phiá tại mỗi đỉnh ngôi sao, không kể đến các súng liên thanh khác như đại liên 30 và 60. Các đại đội phòng thủ trong vòng rào ngoài ngăn cách căn cứ với chung quanh, với hệ thống giao thông hào và hầm hố kiên cố. Muốn vào hàng rào ngoài, địch phải vượt qua một bãi mìn dày đặc với hệ thống chiếu sáng báo động. Kế tiếp là khoảng trống đủ để các trực thăng đáp. Trong cùng là hàng rào ngăn cách Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Một phi trường cho C123 nằm ngay dưới cổng trại.
(Tiểu Đoàn 92 BĐQ có một phương thức gài mìn đặc biệt phối hợp giữa cách gài bẫy của người Thượng và mìn Claymore. Khi chạm, mìn sẽ nổ liên hoàn nên sức công phá rất mạnh và hiệu quả. Tr/T Ngôn đã được mời về trường Võ Bị Đà Lạt, và khi đang theo học khoá Bộ Binh Cao Cấp tại trường Thủ Đức cũng được mời thuyết trình về cách gài bẫy hiệu quả này.)
Đầu năm 72, LĐ6 BĐQ do Trung Tá Trịnh văn Bé làm liên đoàn trưởng và Lữ đoàn 2 Nhảy Dù do Đại tá Trần quốc Lịch làm lữ đoàn trưởng, hành quân quanh vùng và Kampuchia. Trong thời gian này, bộ chỉ huy nhẹ của LĐ6 BĐQ đóng trong căn cứ. Khoảng tháng 4-72, một đại đội được lệnh tuần thám chung quanh (không cần đi xa vì hiện đã có 2 đại đơn vị quanh vùng) thì phát giác một đường mòn lớn hướng về phiá An Lộc, xe hơi có thể chạy qua, Đây là dấu hiệu báo cho biết các đơn vị công binh cuả CS đang chuẩn bị đường xá cho một cuộc chuyển quân lớn cuả chúng trong chiến dịch Đông Xuân sắp tới. Quân Khu đã cho máy bay L19 lên quan sát.
Hai đại đơn vị ND và BĐQ đã đột nhiên rút ra khỏi căn cứ, giao trách nhiệm toàn vùng cho TĐ 92 BĐQ, báo hiệu một chuyện thật lớn có thể xảy ra. Riêng LĐ6 BĐQ đã phải rút khẩn cấp theo đường bộ về theo ngả Tây Ninh, đến phi trường Trảng Lớn mới có máy bay chở đi Vùng I.
Đúng như tôi dự đoán, chiến dịch tấn công An Lộc của CS bắt đầu ngay ngày hôm sau. Trại TLC từ đó bắt đầu bị địch vây đánh kéo dài nhiều ngày, mở đầu bằng các đợt pháo kích bằng 82 ly, 107 ly vào căn cứ liên tục ngày đêm. Vào những ngày cao điểm, căn cứ hứng chiụ mỗi ngày từ 100, đến 200 quả đạn. Kế tiếp sau vài ngày, bộ binh địch áp sát, tấn công ban ngày, bò vào ban đêm, cắt đứt đường bộ, chặn tiếp tế, tiếp viện. Chúng còn dùng 12,7 ly phòng không và cả hoả tiễn tầm nhiệt để bắn máy bay đang yểm trợ, hay tiếp tế cho căn cứ.
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hq ... 581236.jpg
Lực lượng biệt kích trước khi chuyển thành Biệt Động Quân Biên Phòng
Ở đây, các đơn vị bộ binh của địch dùng 2 cách để tấn công căn cứ:
1.”Tiền pháo hậu xung”: pháo kích tối đa vào căn cứ rồi cho bộ binh tấn công, trong khi pháo binh tiếp tục bắn lên phiá trước mở đường. Khi xung phong, địch có thể dùng chiến thuật biển người, lấy lợi thế về quân số để áp đảo quân ta.
2.”Hoa nở trong lòng địch”: Cho đặc công bò vào căn cứ rồi bung ra các phía như cánh hoa nở (Tôi đã qua một khoá huấn luyện do binh chủng BĐQ tổ chức về chiến thuật cuả VC).
Gặp sức kháng cự cuả tiểu đoàn và sự yểm trợ hữu hiệu của phi cơ và pháo binh từ các căn cứ khác, địch đã bị chặn lại hết đợt tấn công này đến đợt tấn công khác.
Tuy nhiên, Tiểu Đoàn không tránh khỏi thiệt hại. Các binh sĩ lần lượt bị thương và tổn thất nhân mạng mỗi ngày một cao. Nhiều công sự phòng thủ cũng như vị trí chiến đấu bị hư hại không còn xử dụng được. Khi pháo binh của căn cứ bắn yểm trợ An Lộc, thì VC tập trung pháo kích vào vi trí pháo binh của ta. Chỉ sau vài ngày, các khẩu đại bác bị hư hỏng nên không còn dùng được nữa. Với lưới đạn dày đặc đan kín bầu trời, việc tiếp tế và việc tải thương bằng máy bay càng trở nên khó khăn khi áp lực địch gia tăng mỗi ngày. Nhưng đơn vị vẫn duy trì được tinh thần kỷ luật và tinh thần binh sĩ vẫn cao. Áp lực địch giảm đôi chút khi VC bị thất bại tại An Lộc, tuy nhiên chúng vẩn duy trì pháo kích và phòng không.
Trong một lần hành quân chung quanh căn cứ, một toán tiền đồn của TĐ92 BĐQ đã phục kích giết chết 1 tên đeo sắc cốt và 2 tên cận vệ. Trong đêm, một đơn vị VC đã trở lại cướp xác nhưng bị ta đánh trả dữ dội nên không thành công. Đơn vị tiền đồn đã tịch thu được một túi tài liệu, và một khẩu súng K59, vốn được trang bị cho các sĩ quan tham mưu cao cấp của chúng.
Quân đoàn 3, sau khi nghiên cứu tài liệu, đã xác nhận đó là đại tá CS với bí danh Nguyên Hương, Cục Phó Cục R, đặc trách về chính trị. Y đang nghiên cứu về sự thất bại của CS tại An Lộc. Tại sao chiến thuật “Nhị thức bộ binh – Thiết giáp của CS lại thất bại?” Bản đánh giá nói là việc kết hợp không đồng bộ: Lúc có thiết giáp thì không có bộ binh, và ngược lại. (Đây chỉ là một lý do để biện minh cho sự yếu kém của chúng. Chúng quên mất chính tinh thần chiến đấu của lực lượng phòng thủ và dân chúng sống tại An Lộc mới là yếu tố chính làm chúng thất bại!)
Mặt trận lại đột nhiên trở nặng. Sau khi chiến dịch tấn công An Lộc chấm dứt, mặc dù bị tổn thất nặng, chúng cũng đã rảnh tay nên xiết chặt vòng vây, liên tục pháo kích, tấn công, đặc công. Trại TLC, không thể được tiếp cứu vì Quân Đoàn không còn đơn vị trừ bị, không thể liên lạc với bên ngoài bằng đường bộ vì VC dày đặc vây kín căn cứ, giờ đây đã trở thành một tiền đồn cô đơn nằm giữa vùng đất địch, ngược lại cũng đã trở thành vết nhọt trong vùng đất chúng chiếm đóng. Tiểu đoàn nhận tiếp viện đạn được, súng ống, lương thực, thuốc men… hoàn toàn bằng trực thăng và C130. Tuy nhiên vì hoả lực phòng không của VC đan chặt trên bầu trời, trực thăng trở thành mục tiêu dễ bị bắn hạ, nên chỉ còn chờ C130 tiếp tế từ trên cao, do Căn Cứ 90 Tiếp Tế Thả Dù tại Phú Thọ, Saigon đảm trách. Cách thả dù cổ điển đã không chính xác vì trung bình 10 kiện hàng thì chỉ có 2, 3 kiện lọt vào căn cứ, còn lại thì bay ra ngoài vào vùng đất địch. Sau khi học được kỹ thuật đặc biệt là khi tới một cao độ nhất định, ngòi nổ gắn theo dù được kích hoả nổ để các kiện hàng rơi vào trong căn cứ, thì việc tiếp tế có hiệu quả hơn. Các phi công chỉ cần tính toán sức gió và hướng gió là có thể thả từ trên cao mà không sợ bay ra ngoài trại.
Tôi cũng cần nói thêm, một quân nhân tên Bằng, vốn thuộc LLĐB trước đây, sau khi chuyển qua BĐQ, đã được đi học và trở thành một phi công trực thăng. Anh đã tình nguyện 3 lần bay vào căn cứ. Đây là một sự tình nguyện đáng ghi ơn vì nhờ thế căn cứ đã có khá đủ tiếp liệu. Sự can đảm tuyệt vời của anh khiến tôi luôn khâm phục, vì mỗi lần vào được căn cứ, vượt qua lưới đạn phòng không dày đặc của địch, rồi trở ra là một lần đối diện với cái chết. Khi vào tới căn cứ, trực thăng phải áp dụng kỹ thuật xuống đặc biệt để tránh bị VC pháo kích. Họ phải bay thật nhanh thẳng tới căn cứ, rồi từ trên cao tắt máy cho rơi tự do, khi gần tới đất thì mở máy ngay để đáp xuống. Có thấy các máy bay trực thăng đáp xuống căn cứ mới thấy lòng can đảm và tài lái điêu luyện đòi hỏi nhiều kinh nghiệm của các phi công.
VC pháo kích ngày nhiều ngày ít, nhưng sự tổn thất cuả tiểu đoàn tuỳ thuộc vào độ chính xác của pháo binh địch. Do tiếp tế giảm, diều kiện sống hàng ngày cuả toàn Tiểu Đoàn xuống thấp. Ăn uống thiếu thốn, điều kiên vệ sinh kém, khiến càng có nhiều bệnh binh bị suy nhược, sốt rét. Tinh thần binh sĩ các cấp đã bị kéo dãn căng, thể xác bị mệt mỏi đến cực độ nên tinh thần giảm sút. Nhưng Tiểu Đoàn vẫn duy trì được tinh thần kỷ luật. Vì thế sức chiến đấu nhìn chung không giảm. Số thương bệnh binh không thể tải thương ngày một tăng, vì số lần tải thương bằng trực thăng ngày càng giảm. Sau một lần bổ xung quân số, một trực thăng Chinook bị bắn rơi khiến một số quân nhân bi chết cùng với viên sĩ quan truyền tin lên thay thế. (Trung Uý Đỗ đức Hoạt Phú Quý, khoá 6/69 Thủ Đức, sau 3 ngày kết hôn đã bỏ ngày phép tình nguyện theo trực thăng lên căn cứ.) Viên phi công tên Toàn đã được một trực thăng khác “bốc” khỏi căn cứ. Sau gần một năm rưỡi, lại một trực thăng khác rơi trong căn cứ. Phi hành đoàn được cứu thoát nhưng bị kẹt lại vì không thể đưa ra khỏi căn cứ.
Để tưởng thưởng cho chiến công của cả Tiểu Đoàn 92 BĐQ, cũng như khích lệ tinh thần, tất cả quân nhân các cấp đã được thăng một cấp, sau gần 1 năm bị vây hãm (1973). Tất cả các SQ được tưởng thưởng Bảo Quốc Huân Chương, hoặc Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, các binh sĩ, hạ sĩ quan được tưỏng thưởng ngôi sao đồng và bạc. Tiểu Đoàn được phong tặng Bảo Quốc Huân Chương, quân kỳ Tiểu Đoàn được mang dây biểu chương màu Bảo Quốc Huân Chương (màu đỏ). Các “lon” và huy chương đã được thả từ trực thăng xuống mặt trận, thay vì trao tặng tại chỗ.
Vào khoảng đầu năm 74, một lần nữa toàn bộ Tiểu Đoàn lại được thăng cấp lần thứ hai vì sự chiến đấu quả cảm, và sự hy sinh trong gian khổ trong một trận chiến quá dài ngày.
Khoảng tháng 4-73, phái đoàn ICCS (bốn bên) bay vòng quanh căn cứ để quan sát. Vì có sự hiện diện cuả phái đoàn này nên VC không dám bắn và pháo kích vào trại. Các phi công VN bay cho phái đoàn ICCS đã đánh lạc hướng VC bằng cách bay thật thấp về hướng Sóc Con Trăng. Trong khi đó, các phi cơ trực thăng của Sư Đoàn 3 Không Quân bay thật sát ngọn cây, để ICCS không thấy, vào TLC tiếp tế và tải thương. Đây là chuyến tải thương được nhiều thương binh nhất trong suốt thời gian trại bị vây hãm.
Tôi đã được lệnh TĐT theo trực thăng rời trại với 3 nhiệm vụ, được cho là rất quan trọng:
1.Là gạch nối an ủi, trấn an thân nhân, gia đình binh sĩ. Ngoài ra, tôi còn phải hàng ngày thông báo về tình trạng thân nhân của họ đang chiến đấu tại căn cứ TLC cho gia đình cuả họ. (Mỗi khi tôi đứng trước nhà là họ oà lên khóc vì biết hung tin đã tới, khiến tôi không thể nói nên lời. Thật đau lòng khôn tả!)
2. Liên lạc với Bộ Chỉ Huy Quân Khu 3 BĐQ, phụ trách việc tiếp tế cho Tiểu Đoàn.
3. Đặc biệt giải quyết lương bổng cho gia đình binh sĩ các cấp.
Lúc đó, tình trạng gia đình binh sĩ ở Trại Phan Hạnh, Biên Hoà đang bị rối loạn. Sở dĩ có tình trạng này, vì vợ con của các quân nhân đang tham chiến tại Tống Lê Chân đã kiệt quệ về tinh thần, và túng thiếu về vật chất (không có lương do chồng gửi về). Họ đang tuyệt vọng chờ chồng, cha của họ đã bị kẹt tại mặt trận quá lâu. QK3 đã yêu cầu TĐ đưa một SQ kỳ cựu về để trực tiếp giải quyết với vợ con của các binh sĩ, vì đa số vợ con họ, người Thượng và Miên, không có thói quen giữ giấy tờ để chứng minh liên hệ của họ với chồng, cha. Do đó, việc xác định là vợ, con chỉ căn cứ vào sự nhận biết của những người quen cùng đơn vị. Trong tất cả SQ của Tiểu Đoàn, chỉ có tôi có thể giải quyết tình trạng lương bổng cho vợ con binh sĩ và lo việc tiếp tế cho Tiểu Đoàn hiệu quả.
(Khi bình yên, vợ con các binh sĩ, nhất là người Thượng, ở trong trại cùng chồng. Tôi đã ở từ ngày đầu nên biết hầu hết thân nhân sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ vì gặp nhau hàng ngày và thường nói chuyện với nhau. Vợ con binh sĩ đã được đưa về trại Phan Hạnh khi cuộc chiến trở nên khốc liệt.)
Sau khi về tới hậu cứ, tôi thường xuyên theo C130 thả dù tiếp tế và nhận lệnh trực tiếp từ TĐT (qua vô tuyến) uỷ quyền thay binh sĩ đang chiến đấu, cho gia đình họ được lĩnh lương đúng kỳ. Theo đúng nguyên tắc, một binh sĩ muốn nhờ hậu cứ trao lương cho vợ con của họ thì phải có chữ ký của binh sĩ đó. Tôi đã ghi nhận và báo về Đại Đội Công Vụ của QK3 và giải quyết lương bổng theo yêu cẩu của TĐT. Trong những lần theo C130 về ban đêm, tôi đã nhìn thấy lưới đạn phòng không của địch (với những đường đạn sáng) đan kín chung quanh, và thỉnh thoảng các hoả tiễn tầm nhiệt hướng về máy bay, nổ chói loà trong đêm đen của núi rừng biên giới. Tuy nhiên, máy bay đã bắn các trái sáng có nhiệt độ cao nên các hoả tiễn này không thể tới gần máy bay của họ.
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hq ... 581423.jpg
11-4-74, sau 510 ngày Tiểu Đoàn bị vây hãm, Trung Tá Lê văn Ngôn ra lệnh tôi phải bay từ Biên Hoà tới An Lộc ngay, phải mở truyền tin 24/24. Khi đang ở trong An Lộc thì Tr/ Tá Ngôn đã gọi cho tôi: (Để đơn giản, tôi dùng bạch văn để trình bày cùng các độc giả):
- Trại đang bị tấn công rất nặng. Anh hãy báo ngay cho Đại tá Chuẩn.Trại Huấn Luyện của Lực Lượng Đạc Biệt tại Đông Ba Thìn
Sau đó, tôi nghe nhiều tiếng nổ dữ dội từ hướng trại TLC vì chỉ cách có 15km theo đường chim bay. Tôi lại nghe tiếng Tr Tá Ngôn từ máy vô tuyến:
- Kho đạn đã bị nổ và trại bị tràn ngập.
Và lời nói cuối cùng:
- Tôi đã ra lệnh rút quân.
Vô tuyến bị cắt, không một tin tức gì được ghi nhận thêm từ đó. Tôi đã báo cáo với Thiếu Tá Thuận, Trưởng Phòng 3 QK3 BĐQ. Tại đây, họ cũng cố gắng liên lạc với TĐ nhưng không kết quả. Cũng cần nói thêm, trong thời gian này, VC đã chiếm được một số máy vô tuyến cuả ta và đã cho bộ phận tình báo của chúng theo dõi và bẻ khoá. Do đó, mọi chuyện liên lạc qua CR25 đều bị chúng nghe lén và tìm cách đối phó. Với tình thề sống còn của cả Tiểu Đoàn 92 BĐQ thì việc “im lặng vô tuyến” là điều cần thiết và dễ hiểu. Sáng hôm sau, Đại Tá Chuẩn đã phái L19 bao vùng, tìm kiếm, và theo dõi nhưng rất tiếc không có dấu hiệu cuả TĐ92 BĐQ.
Ngày 12-4-74, L19 tiếp tục bao vùng, kể cả khu vực chung quanh An Lộc nhưng vẫn không tìm thấy dấu vết của Tiểu Đoàn. Khi bay ngang Trại TLC, viên phi công thấy phía dưới khói mịt mù (có lẽ vì kho đạn nổ và đám cháy chưa dứt). Đến gần trưa, đột nhiên tiếng Trung Tá Ngôn vang lên trên máy truyền tin muốn nói chuyện với Đại Tá Chuẩn. Tr Tá Ngôn xin Đại Tá Chuẩn cho lực lượng tiếp viện trong khi Tiểu Đoàn cố gắng phá chốt để vào An Lộc.
Chỉ một thời gian ngắn sau đó, VC đã bắt được tần số sóng truyền tin của ta. Tôi không chắc chúng biết được nội dung cuộc điện đàm vì đã được mã hoá, cũng như việc bẻ khóa đòi hỏi thời gian. Nhưng VC đã báo động và ra lệnh toàn bộ lực lượng của chúng quanh An Lộc đồng loạt tấn công các đơn vị của ta bằng bộ binh và pháo kích đồng loạt nhằm ngăn chặn tiếp cứu, đồng thời cho các đơn vị của chúng tìm kiếm Tiểu Đoàn 92 đang ở đâu đó quanh An Lộc, để chuyển quân tấn công. Ngược lại, các đơn vị của ta cũng đồng loạt mở các cuộc tấn công về phiá địch nhằm làm giảm áp lực lên Tiếu Đoàn 92, mặc dù các đơn vị phòng thủ An Lộc không rảnh tay để tổ chức tiếp cứu. Để ứng phó với tình hình, các phi đoàn trực thăng và phản lực thuộc Quân Đoàn III đã lên vùng yểm trợ.
Ở bên ngoài, Tiểu Đoàn vừa phải chống trả sức tiến công điên cuồng, vừa phải phá các chốt ngăn chặn của CS. Lại có thêm thương binh và binh sĩ tử trận. Đổi lại bọn CS cũng phải chịu tổn thất cho hành động của chúng. Trung Tá Ngôn đã yêu cầu Thiếu tá Phước, Tiểu Đoàn Phó, cùng một đại đội đi đầu “nhổ” các chốt trên đường đi, trong khi ra lệnh cho các đại đội khác vừa đánh vừa rút.
Khoảng 3 giờ chiều, tôi được Đại Tá Chuẩn gọi và yêu cầu báo cho TĐ biết là “phải vào vị trí an toàn trước 4 giờ”, vì trời sẽ mau tối, nhiều sương mù nên Không Quân không còn yểm trợ hữu hiệu.
Tôi đã ngồi trên CNC theo dõi cuộc rút quân. Từ trên cao nhìn xuống, tôi thấy Tr/Tá Ngôn, ngồi giữa một hố B52, chung quanh có khoảng chục binh sĩ đứng bao quanh, và các binh sĩ bị thương nằm la liệt khắp nơi. Ông đang cho trải pano, đánh dấu vị trí bạn, để điều chỉnh trực thăng đánh về phiá VC. Khi tôi dùng máy truyền đạt lệnh cuả Đại Tá Chuẩn, Trung tá Ngôn đã ra lệnh cho tôi:
- Hãy về nói với “ông già”, chừng nào tôi mang được “đứa con” cuối đang bị “kiến cắn” vào thì tôi mới vào.
Tôi đã bật khóc và nói với ông:
- 90 cố gắng vào vì yểm trợ cuả Không Quân sẽ không còn hữu hiệu.
Thật may mắn, các trực thăng thuộc Sư Đoàn 3 KQ đang bay phiá trên, đã nghe được cuộc điện đàm nên tất cả bay vào tấn công địch không cần chờ lệnh, bằng mọi cách giải toả cho Tiểu Đoàn. Trực thăng xuống đổ xăng rồi bay lên tiếp, như châu chấu trên trời, và bắn yểm trợ tối đa, bất kể lưới đạn phòng không của VC.
Cuối cùng, nhờ lòng can đảm của các người bạn ngoài quân chủng (Trong đó có một phi công là bạn cùng khóa 21VB với Tr/Tá Ngôn, Thiếu Tá Trần gia Bảo), nhờ tác xạ hiệu quả của các trực thăng, cuối cùng tiểu đoàn đã vượt qua những chướng ngại sau cùng. Đại đội đi đầu đã nhổ được các chốt ngăn chặn, mở đường cho các đại đội kế tiếp tuần tự vào theo.
(Cũng tiện đây, thay mặt các sĩ quan thuộc TĐ92 BĐQ, còn 5 người hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ, các quân nhân của Tiểu Đoàn 92, tôi gửi lời chân thành ghi ơn đến các phi hành đoàn vận tải C123, C130, các phi đoàn phản lực thuộc Sư Đoàn 5 Không Quân tại Tân Sơn Nhất, và các phi đoàn trực thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân tại Biên Hoà, về các phi vụ mà cách anh đã tiếp tế, yểm trợ, tải thương cho TĐ92 BĐQ trong thời gian bị vây hãm và rút lui.)
Cuối cùng, Tiểu đoàn 92 BĐQ đã về đến điểm an toàn. Trong cuộc rút quân này, Tiểu Đoàn đã đưa được toàn bộ đơn vị khoảng trên 250 người, hầu hết thương binh, kể cả phi hành đoàn trực thăng bị bắn rơi tại TLC nhưng trực thăng tiếp cứu không thể xuống, trừ 2 người phải bỏ lại dọc đường vì đã chết. (Phi công và phụ tá tên Phối và Mỹ, và 2 xạ thủ đã cùng Tiểu Đoàn theo đường bộ rút lui.)
Sau đó, tôi đã dìu Tr/Tá Ngôn, gần như kiệt sức, vào trình diện Đại Tá Chuẩn. Tại đây, Tr/Tá Ngôn nghiêm chào rồi nói:
- Thưa Đại Tá, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc rút quân này.
Đại Tá Chuẩn đã dõng dạc, nhưng nhỏ nhẹ, trả lời:
- Không, tôi là Chỉ Huy Trưởng BĐQ Quân Khu 3, kiêm Tư Lệnh Mặt Trận An Lộc, cấp bậc cao cấp nhất tại đây, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc rút quân này.
o O o
Một thời gian sau đó khi có thời gian, Tr/Tá Ngôn mới kể thêm cho tôi biết thêm về cuộc vây hãm của VC, và cuộc rút quân cuả Tiểu Đoàn 92 BĐQ:
Căn cứ đã bị Sư Đoàn Công Trường 9 vây hãm, trong đó Trung Đoàn 271 (VC đã dùng nhiều danh xưng với mục đích nguỵ trang. Nhiều đơn vị đã dùng 2, 3 tên khác nhau nhưng thực sự chỉ là một) và một trung đoàn pháo binh của CS trực tiếp tham chiến. Trung đoàn pháo binh này được trang bị các loại súng cối 82 ly, 107 ly… và các loại hoả tiễn 24 nòng, và các hoả tiễn tầm nhiệt. Loại hoả tiễn này bắn hàng loạt, có sức công phá rất lớn đối với sinh vật đứng trên mặt đất, tuy nhiên không chính xác nên thỉnh thoảng chúng mới dùng. Ngoài ra chúng còn điều động một tiều đoàn pháo binh 130 ly bắn trực tiếp vào căn cứ.
Với hoả lực và quân số áp đảo khi so sánh với Tiếu đoàn 92, VC đã nhiều lần tung các đợt tấn công nhằm xoá bỏ sự hiện diện của quân ta trong vùng do chúng chiếm đóng.
Khoảng cuối tháng 3/74, sau khi pháo kích dữ dội bằng súng cối 82 ly và hoả tiễn 107 ly, địch đã cho bộ binh xung phong, định đè bẹp căn cứ. Nhưng, các đại đội đã đẩy lui địch nhờ căn cứ có hầm hố kiên cố dù đã bị hư hại nhiều.
Ngày 5 tháng 4, bộ binh địch sau một đợt pháo kích dữ dội đã được xe tăng T54 yểm trợ tấn công trại, nhưng nhờ điạ thế trại ở trên cao xe tăng không thể lên tấn công nên chúng đã thất bại.
Ngày 11-4-74, sau khi kho đạn bị nổ vì địch pháo kích trúng, Tr/ Tá Ngôn biết Tiểu Đoàn không còn đủ khả năng giữ căn cứ nên ra lệnh rút lui. Trước đây, đề phòng trường hợp xấu nhất có thể xảy ra, là một sĩ quan giàu kinh nghiệm, ông đã nghiên cứu đường rút quân và phân công các đại đội những việc phải thi hành khi có lệnh rút lui. Ông đã ra lệnh phá huỷ các khẩu đại bác 105 ly, các khầu súng liên thanh lớn, các máy truyền tin dư thừa, và cả mìn và đạn chưa bị hư hại. Ngoài ra, các đại đội còn được phân công mang theo toàn bộ thương bệnh binh.
Việc rút quân bất ngờ cuả TĐ chắc chắn gây bối rối cho VC quanh căn cứ, vì một đơn vị lớn như Tiểu Đoàn 92, không có phương tiện vượt sông, không thể băng được qua đầu sông Saigon vào mùa mưa, nước lớn mà không bị khám phá. Đối với người quen thuộc điạ thế, con đường duy nhất là mở đường máu xuống cửa trại, băng qua cầu và đi thẳng về An Lộc. Vì nghĩ như thế, chắc chắn VC đã bố trí các lực lượng ngăn chặn một khi TĐ rút quân theo hướng này. Đoán được suy nghĩ của chúng, Tiểu đoàn đã rút theo hướng ngược lại mà VC không ngờ. Đó là đi sâu vào vùng đất địch.
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hq ... 581509.jpg
Họ từ đỉnh đồi băng ra sau căn cứ, vượt suối đang muà nước lớn, đi ngược về hướng Minh Thạnh cách hơn 40km. Để đưa được nguyên Tiểu đoàn băng qua suối, Tr Tá Ngôn nhờ những người lính Thượng trước đây thường đi bắt cá, biết được nơi có đá ngầm, căng dây cho những người không biết bơi, và các thương binh đi qua.
Ông nói:
- Minh Thạnh thuộc Chiến Khu C, vì VC mang quân vây mình nên nơi đây sẽ không có chủ lực quân của nó. Cùng lắm chỉ có đám hậu cần và thương binh của chúng mà thôi.
Bình Long toàn rừng le, cây phủ trên đầu, Tiểu Đoàn phải len lỏi, đôi khi phải bò theo những khoảng trống dưới tàn tre. Núi rừng hiểm trở như thế, TĐ còn tắt máy truyền tin vì sợ VC tìm ra điểm đứng, nên máy bay L19 không thể tìm được tung tích, dù đôi lúc L19 bay trên đầu Tiểu Đoàn. Như một phép lạ đối với ta và địch, Tiểu Đoàn 92 đã biến mất khỏi vùng hành quân. Khi tới Minh Thạnh, TĐ đi ngược lại theo QL 13 rồi quay vòng về An Lộc, tới Xa Cam, Xa Cát.
(Trước khi vể TLC, Tr/Tá Ngôn đã ở trại Chí Linh của LLĐB, cũng như Đại Uý Phan trí Viễn đã ở trại Minh Thạnh nên rất rành khu vực này.)
Khi gần tới nơi, Tr/Tá Ngôn mới quyết định mở máy liên lạc để giữ bí mật tuyệt đối. Đi sâu vào lòng địch, các binh sĩ của cả tiểu đoàn hành quân trong điều kiện tuyệt đối khó khăn, không thể tiếp viện, không thể kêu cứu, trong khi còn phải cáng hoặc dìu theo thương binh. Tiểu Đoàn đã phải trải qua cuộc hành quân vô cùng nguy hiểm, vì chỉ một sai lầm nhỏ khiến VC khám phá ra vị trí, thì cả Tiểu Đoàn phải gánh chịu hậu quả khôn lường.
o O o
Hôm nay sau gần 40 năm, những hình ảnh bi thảm, nhưng kiêu hùng của các binh sĩ Tiểu Đoàn 92 BĐQ vẫn linh động hiện ra trước mắt, trong ánh sắng nhạt nhoà của ký ức. Khi tuần tự vào được bên trong khu vực An Lộc, họ gần như đã kiệt quệ, gầy ốm vì thiếu ăn lâu ngày; da xạm đen, bệnh hoạn vì thiếu hụt thuốc men; quần áo tả tơi rách nát vì thiếu quân phục thay thế; bẩn thỉu do đất bùn vì phải lặn lội trong rừng sâu và phải chiến đấu liên tục để dành sự sống. Một số phải diù đi.
Nhưng qua nét mặt của họ hiện lên vẻ nhẫn nại chịu đựng phi thường, trong khi đầu họ vẫn ngửng cao phảng phất nét hãnh diện vì đã làm được chuyện thần kỳ.
Các thương binh còn tệ hại hơn, vì có môt số phải nằm trên cáng. Một số không còn đủ sức để trả lời. Tôi không hề nghe tiếng rên xiết, trách cứ về số phận kém may mắn của mình. Mặc dù đã có hơn 250 binh sĩ trở về, trong đó có 4 người của phi hành đoàn trực thăng (gồm 1 phi công, 1 phụ tá, và 2 xạ thủ), nhưng quân số có khả năng tham chiến thực sự chỉ còn khoảng 150 người.
Lúc đó, tôi đứng im lặng nhìn họ, lòng đầy cảm xúc không nói nên lời. Tôi cảm thấy hãnh diện vì đã là một phần của họ. Vượt lên sự sợ hãi, đối diện với cái chết, họ đã chiến đấu chống kẻ thù không mệt mỏi trên 510 ngày, trong thiếu thốn, đói khát, bệnh tật. Vượt trên sự yếm kém về quân số, trang bị, và hoả lực, họ đã giáng cho VC những tổn thất nặng nề dù chúng mạnh hơn nhiều lần, quân số đông hơn nhiều lần, trang bị tận răng. Điều gì khiến họ làm được? Đó chính là tinh thần kỷ luật và sự tin tưởng đối với cấp chỉ huy của họ. Cấp chỉ huy của họ đã giữ lời hứa là chiến đấu và mang họ về đến điểm an toàn. Họ làm được như vậy là vì chế độ nhân bản của Miền Nam hơn hẳn chế độ phi nhân của CS Việt Nam, hoặc của chế độ tàn bạo CS Nga, Tàu.
Hôm nay, sau gần 40 năm, hình ảnh của 2 cấp chỉ huy đứng đối diện nhau, trong giá buốt của núi rừng, và bóng tối của thị trấn An Lộc vẫn ám ảnh tôi suốt cả cuộc đời. Tôi vẩn cảm thấy bồi hồi và xúc động khi nhớ như in lời đối đáp của Đại Tá Nguyễn thành Chuẩn và Trung Tá Lê văn Ngôn (giờ đây cả hai ông đã không còn nữa):
“Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc rút quân này.”
Câu trên được nói 2 lần liên tiếp qua 2 cấp chỉ huy khác nhau. Tại sao họ phải làm như vậy? Bởi vì họ ý thức được rằng, họ là người đầu tiên nhận vinh quang, khi đơn vị mang thắng lợi về, thì họ cũng phải là người dám can đảm nhận trách nhiệm về những tổn thất của đơn vị. Vì đó là danh dự, là phẩm chất không thể thiếu của một cấp chỉ huy. Thật may mắn, chúng ta đã có nhiều người như họ, dám nhận trách nhiệm về mình bất kể hậu quả.
Sau 30-4-75, chiụ chung số phận của dân chúng Miền Nam, giống như trăm ngàn người của chế độ cũ, Tr/Tá Ngôn đã bị đưa đi tù “cải tạo” tại miền Bắc. Bị bạc đãi, hành hạ tinh thần, ông vẫn bình tĩnh giữ đúng tư cách của một quân nhân dù đã bị bại trận, vẫn duy trì được niềm tin vào chính nghiã. Nhưng ông đã không chống chọi nổi với cơn bệnh hiểm nghèo trong điều kiện khốn cùng, thiếu thốn thuốc men và dinh dưỡng. Cuối cùng, ông đã lặng lẽ giã từ cõi đời. Những người bạn đưa ông xuống huyệt mộ với một tấm chiếu rách trong câm nín, là những người bạn tù đáng thương đang chiụ nạn như ông, những người đã là từng chiến đấu, từng cùng nhau chống kẻ thù chung là CS Việt Nam.
Kể từ ngày VC chiếm Miền Nam, chúng ta không hề nghe CSVN nhắc đến, hay tổ chức ăn mừng “Trận Đánh Tống Lê Chân”. Phải chăng, lực lượng VC tấn công đã bị thiệt hại rất nặng nề trước một lực lượng phòng thủ nhỏ bé, bị cô lập với thế giới bên ngoài? Phải chăng chiến dịch đánh chiếm cuả chúng bị kéo dài quá lâu vì sợi “gân gà” khó nuốt? Câu trả lời đúng nhất là chúng muốn quên đi nổi nhục nhã đã để nguyên một tiểu đoàn BĐQ biến mất khỏi vòng vây kiên cố của chúng với sự tổn thất không đáng kể, như đã “bốc hơi”.
30 tháng 4 năm nay lại về, một thoáng nhớ về kỷ niệm xưa, kẻ còn người mất, tôi muốn được im lặng tưởng nhớ đến Tr/Tá Ngôn và những người lính cuả TĐ92 BĐQ năm xưa, kém may mắn đã hy sinh tại trại Tống Lê Chân và trên đường rút lui. Cho tôi được nghiêng mình trước sự hy sinh cao cả ấy. Các anh đã là những vị anh hùng vì chỉ có các anh mới làm được chuyện đội đá vá trời. Nghĩ đến các anh, tôi không quên nghĩ đến nỗi đau khổ mà vợ con các anh phải gánh chịu. Xin cho tôi được nghiêng mình chia sẻ nỗi bất hạnh tột cùng với vợ con các anh vì đã mất người thân yêu.
Giống như các liệt sĩ vô danh khác cuả QLVNCH, sự hy sinh của các anh sẽ được muôn đời nhắc đến.
- thienthanh
- Posts: 3335
- Joined: Thu Jun 07, 2007 4:14 pm
- Contact:
Post by thienthanh » Thu Sep 05, 2013 6:00 am
Chuyện Người Nghĩa Quân...
Rừng thiêng sơn trại không hò trận
Chỉ thấy tiêu điều những bóng ma
Viên Linh
Tết năm đó tôi về Việt Nam ghé thăm bạn bè. Đến miền Trung, tôi được một người bạn rủ thăm mộ một người bạn khác. Từ một thị trấn miền biển, chúng tôi ra quốc lộ Một, theo hướng bắc, lên một đèo nhỏ, đến đỉnh đèo, thay vì xuống dốc, bạn tôi cho xe chạy vào một đường mòn dọc theo chân núi. Đây là một vùng hoang vắng, cằn cỗi, toàn đá, cây lưa thưa, cao không quá đầu người. Chiếc xe gắn máy cứ nhảy chồm chồm, như con ngựa trở chứng, mấy lần suýt ngã xuống vực. Cuối cùng chúng tôi cũng đến được một nơi, hơi bằng phẳng, có mười mấy ngôi mộ đất, nằm rải rác trên một diện tích khoảng một cái sân lớn. Bạn tôi chỉ một mô đất có miếng gỗ nhỏ ghi chữ Tư bằng hắc ín bạc màu.Rừng thiêng sơn trại không hò trận
Chỉ thấy tiêu điều những bóng ma
Viên Linh
- Nó nằm đây!
Chúng tôi lấy nhang, đốt lên, đứng trước mồ bạn, khấn vái mấy câu. Trong giây phút tưởng niệm, tôi như hình dung rõ bạn tôi trong những ngày cùng ngồi chung lớp, chung trường. Bạn tôi vui tươi, khỏe mạnh, yêu đời, lúc nào cũng nói chuyện tếu được, khiến cho dù ai có chuyện buồn cũng phải bật cười… Rồi cảm tưởng như tất cả những người nằm trong các ngôi mộ rải rác chung quanh đều là bạn thân thiết, vong linh họ đang đứng bên cạnh, tò mò nhìn xem chúng tôi làm gì? Ý nghĩ đó khiến tôi thêm ngậm ngùi, thương cảm. Tôi khấn lầm thầm. “Chúng tôi rất hãnh diện có được những người bạn đã chọn một cái chết hào hùng để bảo vệ tự do, bảo vệ đồng bào. Sự hy sinh của các bạn càng thêm ý nghĩa sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm đóng Miền Nam. Dân chủ, tự do không còn nữa!” Tôi cũng trấn an người bạn học quá cố của chúng tôi khi nói về cuộc sống ổn định của vợ và các con của bạn “Anh em đồng môn luôn tìm cách an ủi, giúp đỡ chị và các cháu”. Khấn xong, chúng tôi đem nhang cắm lên tất cả các ngôi mộ.
- Chỉ thằng nầy là dân hành chánh, còn mấy cậu nằm chung quanh toàn quân nhân. Nhảy dù với nghĩa quân.
- Có lẽ phải xây một cái khung cho tất cả các ngôi mộ nầy, rồi đổ đất lên mới không bị mồ xiêu mả lạc.
- Lần trước, lên đây, tôi có gặp anh chàng sống một mình trong mái tranh đằng kia, mình có thể nhờ anh ta lo vụ nầy…Chắc không tốn bao nhiêu.
Mới buổi sáng mà nắng đã gay gắt. Tôi đứng nhìn quanh. Một bên là núi cao, một bên là sườn núi thoai thoải, chạy đến một rừng cây xanh có lẽ là điểm nước, thấp thoáng sau hàng cây là quốc lộ Một, mấy chiếc xe đang chạy trên một cây cầu nhỏ, bắc qua một con suối, về mùa hè nên nước cạn, chỉ thấy lấp loáng ánh nắng qua những gộp đá nhỏ. Bạn tôi chỉ tay về hướng bên kia đồi.
- Nhà anh ta dưới tàng cây lớn kia kìa, nếu để ý, quá khỏi tàng cây, có cái gò cao, giống hình người đang ngồi. Bạn thấy chưa? Đó là cái gò mối, nhưng người ta đồn đãi là mộ của một cô gái rất linh thiêng. Bây giờ mình thử đến đó xem sao.
Chúng tôi đi băng qua đồi. Đường rất khó đi nên phải đẩy bộ chiếc xe gắn máy, có khi phải khiêng qua những những tảng đá lớn chắn lối hay những rãnh sâu. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến nơi. Đó là một căn nhà tranh vách ván, nằm dưới một cây mít có tàng lớn che gần hết mái nhà. Sau nhà là một khu vườn vuông vức mỗi cạnh độ vài trăm thước, trồng cây lưu niên làm hàng rào, trong vườn là những luống khoai lang, khoai mì và bắp, góc vườn có một giàn bầu hay bí gì đấy. Nhà vắng tanh. Chúng tôi lên tiếng.
- Có ai trong nhà không?
Một người đàn ông từ sau bếp bước ra.
- Có tôi!
Anh ta khoảng trên bốn mươi, người hơi ốm nhưng rắn rỏi, da sạm nắng, tóc cắt ngắn, đôi mắt chơn chất sáng lên niềm vui của kẻ sống cô độc được có người đến thăm.
- Chào quí anh. Quí anh có chuyện gì mà lên chỗ hẻo lánh nầy?
- Chúng tôi đi thăm mấy cái mộ đằng kia, nhân tiện ghé thăm anh, định nhờ anh chút chuyện.
Anh ta cười, đưa hàm răng vàng khè vì khói thuốc.
- Lúc mấy anh đi lên, tôi đã thấy rồi. Vậy chứ mấy anh có thân nhân, bạn bè gì nằm ở đó?
- Có ông bạn học…Lên thăm, và định xây cho nó cái mộ cho tươm tất, để mộ đất, lâu ngày, gió mưa trôi hết, sau nầy tìm không ra.
- Mời hai anh vô nhà ngồi uống nước.
Chúng tôi bước vào. Đó là một ngôi nhà tranh nhỏ tầm thường. Nhà ba gian, giữa là bàn thờ, có tấm màn che. Bên trái là chiếc giường nhỏ, có lẽ là chỗ ngủ của chủ nhà, bên gối tôi thấy có mấy quyển sách, vì phép lịch sự tôi không nhìn kỹ sách gì nhưng như thế chứng tỏ chủ nhà là người có học và có thú vui đọc sách. Bên phải là một căn buồng đóng cửa. Trước bàn thờ là bàn nước bằng gỗ mộc, cũ kỹ, để một bình tích trong trái dừa khô, giúp cho nước giữ nóng được lâu, mấy cái ly thủy tinh trên một dĩa lớn. Có bốn cái ghế dựa để tiếp khách. Anh kéo ghế mời chúng tôi rồi xuống bếp thổi lửa nấu nước, pha trà. Chúng tôi ngồi nhìn quanh, hỏi vọng xuống bếp.
-Anh sống một mình sao?
Anh ta đi lên nhà trên.
- Tôi sống một mình. Cũng hơn mười năm.
- Không buồn à? Kiếm một bà về ở chung để có người chuyện trò, ốm đau còn nương tựa nhau.
- Tôi có vợ rồi, nhưng vợ mất, tôi ở vậy…thờ vợ.
Tôi pha trò.
- Anh có hiếu với vợ dữ! Cô vợ anh chắc sẽ mỉm cười nơi chín suối khi có được người chồng chung tình như anh.
Anh ta chỉ cười, xuống bếp lấây ấm nước lên, mở nắp bình tích, bỏ trà, chế nước sôi vào.
- Sống một mình cũng quen. Xuống phố thấy xe cộ, người nói, ồn ào, chỉ muốn về nhà cho yên tĩnh.
- Đất vùng nầy cằn cỗi, sao vườn anh tươi tốt vậy?
-Phải xuống suối móc sình lên đắp, mấy đời như thế nên mới trồng trọt được. Mấy anh đi thăm mộ ai ở đằng đó?
- Thăm người bạn, tử trận hồi bảy lăm. Bởi vậy mới định nhờ anh…
Anh ta ngồi lên giường, gác tréo chân, thong thả vấn điếu thuốc lá.
- Thỉnh thoảng tôi có ghé thăm chừng, thắp nhang, dọn cỏ mấy ngôi mộ đó. Mấy anh định xây cho mộ nào?
- Có ông bạn học nằm đó. Cũng định xây luôn cái khung chung quanh tất cả các ngôi mộ rồi đắp thêm đất lên cho mưa lũ khỏi trôi mất. Anh có thể giúp được không?
- Có phải mấy anh định xây mộ cho ông phó hành chánh nằm đó không?
- Sao anh biết?
- Tôi là lính phòng thủ quận hành chánh. Nghĩa quân tụi tôi với ông phó thân lắm. Đúng ra thì ông phó không có nhiệm vụ tác chiến, thiếu tá quận trưởng bảo ông đưa gia đình về Sài gòn, mục đích để khỏi phải đánh nhau, nhưng ông phó chỉ gửi vợ con đi còn ông ta thì ở lại. Ôâng phó bảo đã tốt nghiệp sĩ quan Thủ Đức mà lại trốn chui trốn nhủi thì nhục lắm. Mời mấy anh dùng trà.
Vẻ dè dặt không còn trong cách đối xử của anh ta.
- Các anh yên tâm. Nếu các anh muốn xây thêm cái “khuỷnh” cho tất cả các ngôi mộ thì tôi cũng xin góp chút công. Tôi chỉ tính vật liệu thôi, không tính tiền công. Bây giờ tôi đề nghị thế nầy. Các anh ở lại đây nghỉ trưa, chúng ta sẽ có thì giờ bàn lại kỷ hơn chuyện mồ mả. Tôi xin mời các anh một bữa trưa. Chỉ kẹt là không có rựợu, chớ còn mồi thì lúc nào cũng sẵn sàng. Bắt con gà rồi quơ bậy mớ rau thơm là có ngay một nồi cháo. Hai anh cứ ngồi chơi, đợi tôi. Hay là ra sau hè, có gió, mát hơn ở trong nhà.
- Tụi tôi đâu biết nhậu, có cháo gà mà húp cũng đủ khoái rồi.
Hai đứa tôi ra sau hè, tôi nằm đong đưa trên võng, người bạn ngồi trên cái ghế dài, tựa vào vách nhà. Gió biển thổi lên mát rượi, mấy con chim sâu hót trong bụi rậm, tiếng gió rì rào trong cảnh vắng vẻ, tĩnh mịch… Đúng là cõi thần tiên nơi góc núi. Hai đứa tôi chuyện trò linh tinh một lúc, độ hơn nửa giờ thì anh ta bưng nồi cháo ra, đặt trên một cái bàn nhỏ, thêm mớ chén, đũa, vậy là chúng tôi vừa sì sụp vừa chuyện trò.
- Bây giờ anh kể vụ bảy lăm, ở đây, xảy ra những chuyện gì? Tụi tôi chỉ nghe mang máng có đánh nhau dưới cầu kia, anh có tham dự không?
- Có chứ! Khi có vụ di tản từ Cao Nguyên xuống thì ở quận, tụi tôi được lịnh ứng chiến. Ông phó hành chánh, tức bạn của hai anh, dẫn trung đội nghĩa quân tụi tôi lên chốt trên kia. Tụi tôi đóng ở đó được mấy ngày thì có một đại đội dù đến tăng cường. Ông phó phối hợp với bên dù cho gài mìn dưới cầu đằng kia, chờ tụi hắn đến thì giật sập cầu và chận đánh. Một toán nằm dọc bờ suối, phục ở đó, chờ địch. Tôi và một anh nhảy dù lo việc giật mìn. Nhiệm vụ tôi hễ bấm xong mìn thì lên chỗ gò kia nằm, theo dõi và gọi máy báo cáo khi thấy địch xung phong lên núi. Thế rồi, địch xuất hiện, chạy một dọc cả chục chiếc xe lớn chở đầy bộ đội. Tôi bấm mìn giật sập cầu, mấy anh nhảy dù thụt M72, cháy mấy chiếc xe đi đầu, rồi xả súng như mưa. Từ ngày tôi đi nghĩa quân, thỉnh thoảng có hành quân lùng sục du kích, nhưng việt cộng chỉ bắn mấy phát rồi bỏ chạy, chứ chưa thực sự đụng độ bao giờ. Đến lúc đó tôi mới biết thế nào là đánh nhau. Ôi thôi! Súng nổ khắp nơi, rầm trời, rầm đất. Tôi bò lên chỗ gò mối nằm dòm chừng để báo cáo tình hình. Đến chiều thì xe tăng tụi nó đến. Đại bác của xe tăng thụt phe ta chạy tứ tán, phải núp sau mấy tảng đá, hi vọng tụi nó xung phong theo bờ suối thì nhào ra. Vậy mà chúng chỉ bắn cầm chừng, đến tối, chúng vào giở nhà dân bắt cầu, suốt đêm, sáng hôm sau chúng đi mất tiêu. Coi bộ chúng không thiết đánh nhau, chỉ lo chạy vô phía Nam mà thôi. Sáng đó tụi tôi cũng thu dọn chiến trường, chôn mấy người chết, băng bó người bị thương rồi cũng di chuyển theo đường núi về hướng Nam. Đến tháng Năm thì tan hàng, ai về nhà nấy. Tôi về trình diện chính quyền cộng sản, đi học tập, nghĩa là đi nghe chửi, lao động sản xuất rồi được về nhà. Tôi về đây phụng dưỡng ông bà già. Được năm năm hai ông bà qua đời, tôi vẫn ở đây lo hương khói, chăm nom mồ mả cha mẹ, vợ con cho đến bây giờ.
Ăn xong chúng tôi phụ nhau dọn dẹp chén đũa. Anh đem bình trà và ly ra.
- Trưa nào tôi cũng ra đây làm một giấc. Gió mát lắm!
Tôi nhìn lên đồi, thấy cái gò mối giống hình người ngồi xây lưng về phía chúng tôi.
- Tôi có nghe kể về chuyện cô gái chết nhưng linh thiêng lắm. Anh biết chuyện đó không?
- Chuyện linh thiêng thì tôi không tin, vì đôi khi chỉ là sự trùng hợp tình cờ. Nhưng chuyện về cô gái đó thì tôi biết rõ. Vì nó xảy ra cùng lúc với vụ đụng độ mà tôi vừa kể cho mấy anh nghe đó.
- Anh có thể kể vắn tắt cho tụi nầy nghe được không?
- Chuyện chẳng có gì lạ lùng cả. Lúc đụng độ thì cái gò mối chưa cao và to như vậy…
Tôi đoán chừng.
- Sau đó cái gò mới nổi lên giống hình cô gái ngồi nên người ta thêu dệt nên một chuyện linh thiêng, phải không?
- Cũng gần như thế. Trong toán nghĩa quân, có một anh chàng là chồng của cô gái ở nhà nầy, nên ông phó giao cho hai vợ chồng cái chốt đằng kia, canh chừng địch. Coi như vừa làm việc nhà vừa làm việc nước. Hai người mới cưới nhau được có nửa năm.
Anh ta trầm ngâm.
- Cô ta có bầu được ba bốn tháng. Lúc đụng độ, cô ta không ở trên chốt mà ở nhà, ở đây. Cô với cha mẹ nấp dưới hầm nên vẫn bình yên. Sáng hôm sau, sau vụ đụng độ, cả đơn vị, dù và nghĩa quân theo đường núi vào Nam. Anh chàng nghĩa quân có hẹn với vợ là sẽ quay lại. Nếu tình hình khó khăn, nguy hiểm thì anh ta sẽ về ban đêm, điểm hẹn là cái gò đó. Thế nên, khi thành phố bị địch chiếm, làng xã bị kiểm soát, cô ta không hi vọng gặp chồng ban ngày nên buổi tối cô ta thường mang chiếc võng, mùng mền ra ngoài chốt kia ngủ để chờ chồng. Thường thì cô ngủ lại ở đó đến gần trưa mới vô. Cha mẹ thấy cô mang bầu, thương con, cứ để cho cô ngủ, khi nào thức dậy thì vô nhà. Bữa đó đến chiều, không thấy cô vào, bà mẹ mới ra đánh thức con. Không ngờ ra đến nơi thì chỗ con gái nằm, mối đã đùn lên ngập xác cô, như một nấm mộ. Hai ông bà chưa biết tính sao thì hôm sau, mối phủ cao lên nữa, đành để vậy. Hôm trước đó, cô gái đã than là trong người khó ở, bị sốt, không chịu ăn uống. Cha mẹ cản ngăn nhưng cô vẫn lên chốt ngủ chờ chồng. Có lẽ cô bị trúng gió hay trở bịnh bất ngờ, không ai cứu giúp nên phải chết, vừa lúc mối đùn gò ngập luôn xác của cô.
- Nhưng nghe nói cô linh thiêng lắm, anh có biết tại sao không?
- Số là một năm sau đó, có chuyện xảy ra dưới quốc lộ, chỗ đường mòn mà mấy anh dẫn xe vô lúc nãy. Chuyện như thế nầy. Một buổi tối, trời mưa to, có chiếc xe khách chạy lên đèo. Vì mưa quá lớn không thấy đường sá gì cả, anh tài xế phải lái rất cẩn thận. Lúc xe vừa định quẹo cua, đổ đèo thì thấy một chị đàn bà, bụng mang bầu, đi băng qua đường. Anh tài xế hoảng kinh, vội thắng gấp rồi thò đầu ra cửa xe chửi thề chị đàn bà là đui, là ngu. Chị ta không nói năng gì cả, cứ lẳng lặng đi qua rồi khuất trong mưa. Chửi xong anh ta cho xe chạy. Nhưnh chưa kịp sang số thì thấy một chiếc xe tải chết máy, nằm lù lù một đống, không đèn đóm, không dấu hiệu gì cả. Nếu không vì chị đàn bà băng qua đường mà phải thắng gấp, anh ta đã cho xe húc vào đít chiếc xe tải chết máy nằm đó rồi, chắc chắn là xe phải rớt xuống đèo. Thật hú vía! Anh tài xế xuống xe, cứ hướng chị đàn bà đã đi khuất mà vái lạy rối rít. Không hiểu nghe ai kể mà anh tài xế, ít lâu sau, ra kêu người nhờ xây cái miếu chỗ khúc quanh suýt xảy ra tai nạn. Không may cho anh ta, mới đổ gạch xuống đó thì gặp mấy ông công an xã đi ngang. Họ dừng lại hỏi lý do xây miếu, hỏi giấy phép. Anh tài xế kể lại chuyện xảy ra hôm trước, nhưng chẳng ai tin. Vụ xây miếu bị ngưng. Mấy ông công an kéo nhau lên chỗ gò mối, ông trưởng công an xã rút súng bắn vào cái mộ để thị uy “Chết là hết. Không có ma quỉ, thần thánh gì cả. Cái mộ nầy sẽ bị san bằng nay mai” Vì mấy ông đó đi nhậu về, say quá nên khi xuống đồi, xe bị lọt hố, ông trưởng công an xã bị gãy tay. Thế là người ta đồn rầm lên là ông ta bị “Cô” vật.
- Tôi có đọc một truyện ngắn tương tự. Có lẽ người ta dựa theo đó, cùng với lòng thương cảm cô ta mà thần thánh hóa câu chuyện để người đời truyền tụng.
Anh ta như không để ý lời tôi, kể tiếp.
- Ít lâu sau, anh tài xế được nhắn ra, cho phép tiếp tục xây cái miếu, nhưng không ai dám giúp vì sợ bị bắt. Vừa may gặp tôi, tôi thầu luôn. Xây xong miếu, tôi vào chùa, xin thầy trụ trì viết cho một bài vị bằng chữ nho. Phần trên để mấy chữ thật lớn Anh Hùng, Liệt Nữ. Dưới đó là tên cô gái và tên mấy anh lính chết trận. Tôi đem đến thợ đá nhờ chạm cho một bia nhỏ để thờ trong miếu. Thành ra, ngày rằm, mồng một, xe cộ ngang qua đấy thường dâng lễ vật, khấn vái, xin “Cô” phù hộ đi đường bình an.
- Bộ anh nhớ hết tên mọi người chết trên đó sao?
- Nghĩa quân là đồng đội, cùng đơn vị bao nhiêu năm. Với các anh bên nhảy dù, sống với nhau hàng tuần lễ, chỉ cần nghe tiếng nói tôi cũng biết là ai, tên gì. Vả lại phải nhớ tên mấy người đã chết, để sau nầy thân nhân đi tìm mà chỉ cho họ.
Thấy trời đã về chiều, tôi bàn đến chuyện xây mả, anh ta đề nghị.
- Nên xây từ từ, không cho chính quyền biết, hết tiền tôi sẽ ghé nhà quí anh lấy thêm.
- Anh đừng lo, tôi là Việt kiều, anh cứ tính công vào cho sòng phẳng. Chẳng bao nhiêu mà ngại. Tôi để tiền lại, anh cứ ghé bạn tôi mà lấy.
Tôi nhờ anh ta đưa chúng tôi ra thăm gò mối là mộ của cô gái. Trông không khác bất cứ gò mối nào ở trong rừng, nhưng rất to, kích thước cũng cỡ một ngôi nhà nhỏ. Đứng gần thì không hình dung được, nhưng nếu lùi ra xa, đi vòng phía bên kia, sẽ thấy giống hình một người đàn bà với mái tóc dài, ngực lớn, ngồi xây mặt vô núi. Có một cái nấm nhỏ hơn, giống đứa bé ngồi tựa vào lòng mẹ. Tôi hỏi.
- Trông giống Hòn Vọng Phu, nhưng sao Hòn Vọng Phu nầy lại xây mặt vô núi?
Anh ta có vẻ đăm chiêu.
- Hai mẹ con chờ người trong núi ra.
Buổi chiều âm u, cảnh vật im lìm, tôi cảm thấy rờn rợn, tưởng chừng cái nấm mộ vĩ đại giống hình người kia cũng có linh hồn, có cảm giác và đang lắng nghe chúng tôi chuyện trò. Tôi nói.
- Đáng lẽ phải đem nhang ra đây…
- Vô nhà cúng cũng được. Trong đó có thờ cô ta.
Khi vào nhà, chúng tôi xin được thắp nén nhang, lễ trước bàn thờ tổ tiên, thân nhân của chủ nhà. Anh ta vén tấm màn che bàn thờ lên và lấy nhang, quẹt diêm đốt, trao cho chúng tôi. Tôi thấy trên bàn thờ có để hình hai người lớn tuổi, có lẽ là cha mẹ anh ta. Phía trước là hình một cô gái, diện mạo bình thường, hơi mập, mặt tròn, nụ cười hiền lành, chất phác. Cạnh hình cô ta là hình một người thanh niên.
- Có phải hình thờ bên cạnh là chồng cô ta không?
-Đúng rồi! Vợ chồng phải thờ bên nhau cho có đôi.
Tôi nhìn hình người đàn ông, thấy ngờ ngợ như gặp ở đâu? Nghĩ mãi một lúc, quay nhìn anh ta… hóa ra là hình của chính anh.
-Ủa, anh chưa chết mà sao lại thờ, hay là hình người khác?
- Hình của tôi đó! Cô ta là vợ tôi. Khi cô ấy mất, tôi về đây phụng dưỡng cha mẹ vợ.
- Nhưng sao anh lại thờ chính mình?
Anh cười buồn, đôi mắt xa xăm.
- Khi học tập cải tạo, cán bộ bảo rằng nước Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa. Tối đó, tôi nằm khóc suốt một đêm. Tôi biết, thế là hết. Đất nước tôi, quê hương, bản quán của tôi đã bị người ta chiếm mất rồi! Cán bộ nói rõ là chúng tôi đáng tội chết, chúng tôi không còn là người dân nước Việt Nam nữa. Chúng tôi sẽ bị kiểm soát, theo dõi như những người tù.
Bạn bè, đồng đội, đứa nào cũng buồn, không muốn gặp mặt nhau! Tôi như người lính duy nhất còn sống sót, lang thang giữa một vùng quen thuộc nhưng không còn nơi để trở về. Cảm tưởng rõ rệt nhất là khi tôi đứng trước quận hành chánh nhìn vào. Quận đường vẫn nguyên vẹn, vọng gác trước cổng, nơi tôi thường ngồi gác vẫn còn đó, nhưng tôi không còn quyền yêu thương nơi đó nữa. Tôi đã bị xua đuổi khỏi quê hương tôi.
Tôi sống một mình ở đây nhưng lại cảm thấy được gần gũi với bao người thân yêu chung quanh. Thỉnh thoảng tôi ra ngồi tâm sự với vợ con tôi ở gò mả ngoài kia. Khi thì tôi qua bên kia đồi, cạnh các ngôi mộ, chuyện trò với đồng đội nằm dưới đó. Tôi nghe được, hiểu được những gì các bạn nói với tôi. Tôi nghe cả tiếng cười đùa của họ, nghe cả tiếng lách cách của súng đạn va chạm nhau, ngửi được cái mùi lính, mùi quen thuộc của mồ hôi thấm vào áo trận. Tôi ngồi đó để cảm thấy được an toàn đồng đội như những lúc hành quân, những ngày đóng chốt cũng như khi đụng độ với giặc.
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi.
Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi.
Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹï, vợ con. Khi nào thực sự nhắm mắt thì tôi đã có sẵn cái huyệt mộ, gần vợ con tôi, ngoài kia.
Phạm Thành Châu
Nguồn: http://cuantunguy.com/diendan1/viewtopic.php?p=17733
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
Nhận xét
Đăng nhận xét